Trang 70
Yêu cầu
• Hiểu được những đòi hỏi riêng của kiểu bài giới thiệu về phong cách sáng tác của một trường phái văn học thể hiện qua các tác phẩm cụ thể.
• Kết hợp nhuần nhuyễn việc khái quát đặc điểm phong cách sáng tác của một trường phái văn học với việc phân tích tác phẩm cụ thể.
• Biết đánh giá thoả đáng những đóng góp độc đáo của các nhà văn, nhà thơ trong việc thực hành phong cách sáng tác của trường phái khi viết những tác phẩm cụ thể.
I. ĐỌC BÀI VIẾT THAM KHẢO
Nhớ rừng – một bài thơ độc đáo của phong cách lãng mạn chủ nghĩa(*)
Phan Huy Dũng
Giới thiệu tác phẩm được phân tích và nêu lí do lựa chọn các phẩm này.
Cho đến nay, các tài liệu lịch sử văn học đều nhất trí ghi nhận Thế Lữ là người bằng sáng tác đã đưa đến thắng lợi quyết định cho Thơ mới buổi chào đời. Mà nói đến Thế Lữ người ta trước hết nghĩ đến bài Nhớ rừng. Vậy thì, cũng có thể nói rằng, chính Nhớ rừng là tác phẩm quan trọng nhất đã dẹp được những lời dè bỉu xuất phát từ phái “thơ cũ” về cái gọi là “dốt nát”, “ngẩn ngơ”, “vơ vẩn" của “bọn” làm thơ mới.
Tại sao Nhớ rừng có thể làm được điều đó? Dĩ nhiên là vì nó hay, hoàn hảo về hình thức và điều đặc biệt quan trọng đối với nhiều người thuộc phải “thơ cũ” là nó có “nghĩa lí”. Nhớ rừng không viết về đề tài tình yêu. Bài thơ tràn ngập một không khí bi tráng, có thể gợi nhiều suy nghĩ về thời thế, về hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ.
_______________________________________________________________
(*) Văn bản vốn có nhan đề là Sức tích chứa ý nghĩa của hình tượng con hổ trong bài thơ "Nhớ rừng" của Thế Lữ.
Trang 71
Không phải không có lí khi một số người nghiên cứu đã nhấn mạnh tâm sự yêu nước ở bài thơ (sự nhấn mạnh ấy hẳn chứa đựng nhiều ý nghĩa vào thời điểm Thơ mới lâm cơn “bĩ cực"). Ra đời trong một bối cảnh lịch sử - xã hội và văn hoá đặc biệt của đất nước, hệ từ vựng gồm những căm hờn, uất hận, cũi sắt, nhục nhằn, tù hãm, sa cơ, tình thương nỗi nhớ, ngày xưa, ngàn thâu, ngàn năm, giang san, nước non,... không phải, không thể được sử dụng một cách vô ý. Nó dễ đụng đến chỗ nhạy cảm của tâm hồn Việt, làm thức dậy những kí ức, làm khuấy động những nỗi niềm,... Từ bài thơ, ta nghe đồng vọng tiếng thở dài u uất của bao anh hùng thất thế từng "gặm một khối căm hờn"...
Quy tác phẩm được phân tích về một kiểu hoặc trường phái văn học phù hợp, đồng thời chỉ ra những biểu hiện độc đáo của nó.
Tuy nhiên, quá cường điệu hay bác bỏ ý nghĩa này của Nhớ rừng đều là việc làm không thoả dáng. Nếu quá cường điệu, ta buộc phải xem Nhớ rừng như một hiện tượng đi lạc hệ thống ("hệ thống" những sáng tác của Thế Lữ và của đại đa số các nhà Thơ mới khác), mà điều này thì rất khó được chấp nhận. Nếu bác bỏ, cho rằng bài thơ chỉ thể hiện khát vong đòi giải phóng cái tôi cá nhân thôi thì phải lí giải làm sao về cái giọng thống thiết, bi phẫn, về tâm sự ngụt lửa trong bài, dẫu vẫn biết thơ lãng mạn rất ưa dùng thủ pháp khoa trương, phóng đại, thích tuyệt đối hóa vấn đề, thích dựng lên những tương quan đối lập? Vả chăng, nếu trừu xuất nỗi ám ảnh về thân phận một người dân mất nước vốn tồn tại thực trong tâm não của hầu hết người Việt Nam, thì vẫn có thể khẳng định: những quan hệ xã hội mang tính chất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam (dù là quái dị do tương tác với các điều kiện thuộc địa), vẫn chưa thể bộc lộ hết tất cả mặt phi nhân của nó như sau này để khiến cái tôi mới chào đời phải thất vọng não nề, phải chán nản cùng cực, phải kêu lên phẫn uất như con hổ trong bài thơ của Thế Lữ. Ngay trong trường hợp nhà thơ Việt Nam có được trải nghiệm nỗi hoài nghi sâu sắc đối với xã hội tư sản, một cách gián tiếp, thông qua văn học lãng mạn Pháp (vốn không phát triển đồng pha với văn học lãng mạn Việt Nam) thì vấn đề vẫn không khác. Như vậy, sự lựa chọn chỉ một trong hai ý nghĩa nói trên vô tình đã làm mờ bản sắc của bài thơ, khiến ta không thấy hết đóng góp độc đáo của Thế Lũ. Nhớ rừng, như mọi bài thơ hay khác, vốn đa tầng đa nghĩa, có thể gọi nhiều chiều hướng cảm thụ khác nhau. Bài thơ giống như sự kết tinh của hàng loạt mối quan hệ phong phú phức tạp tồn tại trong xã hội Việt Nam một thuở. Và khi đạt tới giá trị kết tinh ấy, nó dành quyền tồn tại như một thông điệp gửi tới muôn đời, mời gọi một sự “thông diễn" không hạn chế.
Cái tứ của Nhớ rừng không phải là của riêng Thế Lữ. Ta đã thấy nó hiển hiện ở bài Sư tử trong chuồng của Giăng E-ca (Jean Aicard), thấp thoảng ở bài Chim hải âu
Trang 72
Xác định những điểm tương đồng và phong cách sáng tác giữa tác phẩm được phân tích với các tác phẩm khác cùng trường phái.
của Sác-lơ Bô-đơ-le (Charles Baudelaire). Nói rộng ra nữa, tứ "nhớ rừng” nằm trong một cái tứ phổ quát của thơ lãng mạn: đối lập hiện thực với ước mơ, đối lập hiện tại với quá khứ, đối lập cái tầm thường với cái cao cả, đối lập cái nhân tạo với cái tự nhiên; thân sống trong hiện thực, hiện tại, trong cái tầm thường, cái nhân tạo thô kệch mà hồn thì bay tới cõi ước mơ, hướng về quá khứ vàng son, khao khát được sống cao thượng, trong sạch giữa thiên nhiên khoáng dã,... Qua cái tứ phổ quát đó, ta thấy lộ diện một cái tôi bất hòa với xã hội, bất mãn với chính mình (đúng hơn là với tình trạng phải cam chịu sống trong cảnh tù hãm của mình), bất an triền miên với chính nội tâm quá ứ đầy, quá phong phú mà mình trót mang theo như một định mệnh. Xét từ góc độ này, có thể nói Nhớ rừng đúng là một bài thơ lãng mạn, đã cho ta thấy rõ những đặc điểm thi pháp riêng của loại hình thư này. Tất nhiên, một tứ thơ của thời đại lãng mạn vẫn có thể hợp nhất vào nó những cái tứ đã từng xuất hiện trong lịch sử thi ca. Giữa Nhớ rừng của Thế Lữ và Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu không phải không có mối liên hệ nào đó.
Thực hiện một số so sánh cần thiết để nhận ra nét độc đáo của tác phẩm có thể vượt ngoài những quy tắc sáng tạo chung của trường phái.
Chỉ ra tính phổ quát của tứ thơ ở bài Nhớ rừng không hề làm giảm nét độc đáo trong cách hiện thực hoá tứ thơ của Thế Lữ. Nếu ở bài Sư tử trong chuồng, Giăng E-ca luôn tạo sự gián cách giữa nhân vật trữ tình và con sư tử, tả con thú không may này như một đối tượng khách quan – đối tượng đưa lại cho anh ta nhiều suy ngẫm về số phận bi đát của kẻ mất tự do, thì ở bài Nhớ rừng, Thế Lữ (hay đúng hơn là nhân vật trữ tình) đã thực sự hoá thân vào con hổ. Đọc bài thơ, đến lượt độc giả cũng thấy mình bị đồng nhất với hổ, nhập cảm hoàn toàn tâm trạng hổ để có thể kêu lên những lời trầm thống, bi triết. Hẳn nhiên, tiếng kêu đòi tự do, đòi thoát khỏi kiếp sống tầm thường, tù hãm của kẻ đang trải nghiệm thấm thía nỗi đau bị giam cầm hẳn phải lay động hơn, phải “bật máu” hơn tiếng kêu hộ của một kẻ đồng cảm đứng ngoài. Chính Thế Lữ tự ý thức được hoàn toàn về đặc điểm này của bài thơ, bởi vậy, với tư duy duy lí tiếp nhận được từ phương Tây, ông phải cẩn thận chú thích dưới nhan đề Nhớ rừng một dòng chữ: “Lời con hổ ở vườn bách thứ", ý chừng muốn lưu ý độc giả đừng vì nhập hẳn vào bài thơ mà cứ mãi tưởng mình là hổ! Nghịch lí thay, càng làm cái việc phân định rạch ròi, Thế Lữ càng cho thấy mức độ đồng nhất cao giữa đối tượng miêu tả và cái tôi trữ tình! Nếu nói cho chi li, ngoại trừ lời chú thích đã nêu vốn thuộc về phần nhan đề trong phần "ruột" của bài thơ cũng có một câu – chỉ một câu thôi – là thể hiện cái nhìn gián cách. Đó là câu “Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua”. Thoạt đọc, ta vẫn thấy đó là câu “tự tình"
Trang 73
của chính con hổ, nhưng đọc kĩ, ta lại nhận ra một ánh nhìn, một quan sát đến từ phía bên ngoài. Còn các câu khác như “Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng/ Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng" và "Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan" bề ngoài xem chừng giống như nét vẽ của nhân vật trữ tình đứng gián cách, kì thực lại là những câu biểu hiện sự tự say ngắm mình của chính con hổ! Nói tóm lại, sự hóa thân của nhân vật trữ tình vào con hổ là khá triệt để, và điều đó đã đem lại những hiệu quả tác động lớn không ngờ. Đây hiển nhiên là một nét đặc sắc của bài thơ. Chính nó đã đưa vào bức hoạ tổng thể về chân dung cái tôi của Thơ mới một nét rắn rỏi, giúp người đọc hiểu rằng cái tôi này không phải chỉ có dáng dấp ẻo lả yếu đuối và không phải bao giờ cũng chỉ biết quay lưng lại các vấn đề xã hội. Phải mạnh mẽ, tự tin, và nữa, phải có “hỗn thơ rộng mở" (chủ của Hoài Thành) đến độ nào thì mới có thể đồng nhất mình với chúa sơn lâm được chứ!
Như vậy, màu sắc tự biểu hiện của cái tôi trữ tình ở bài thơ là rất đậm. Nhưng không vì thế mà chất tạo hình của Nhớ rừng lại không nổi bật. Hai đặc điểm này không phản trái mà tương hợp với nhau. Lại vẫn là một nét trội trong thi pháp của loại hình thơ lãng mạn mà ở đó cái tôi trữ tình ưa đối tượng hóa lòng mình để được tự ngắm, tự ve vuốt! Trong năm đoạn của bài thơ Nhớ rừng, đoạn hai và ba là đoạn thể hiện khả năng tạo hình của ngòi bút Thế Lữ rõ rệt hơn cả. Câu chữ nổi gồ lớn, khiến hình tượng đập mạnh vào thị giác, thính giác. Những gào, những hét, những thét vừa trùng lặp vừa biến hoá, kích mãi lên một cảm giác mãnh liệt. Cũng thế, những sơn lâm, bóng cả, cây già, lá gai, cỏ sắc, những dõng dạc, đường hoàng, nhịp nhàng, những quắc, tan, chuyển, gội, lênh láng,... trông giống như những vạch màu ngắn, liên tiếp, trùng trùng trong tranh Vin-xen van Gốc (Vincent van Gogh), đưa đến ấn tượng về trạng thái mê man lên đồng của kẻ đang bị vây riết bởi những kí ức hào hùng và của sự sáng tạo. Từ kí ức của con hổ, tất cả vẻ đẹp man dại, phóng khoáng của chốn nước non hùng vĩ hiện ra mồn một, động cựa, biến đổi không ngừng. Rất ít hoặc hầu như không có những hòa sắc xám nhạt, tan loãng, mơ hồ mà chủ yếu là những tàu nguyên đậm dà, tươi tắn, kích thích. Chi tiết ken dày trong đoạn thơ và nói chung là trong cả bài thơ, cho thấy một nhãn thức tạo hình rất khác với nhãn thức tạo hình của thơ cổ điển, của loại hình văn nhân họa vốn thích cái vô ngôn, thích chừa khoảng trống cho sự lắng minh chiếm nghiệm, sự thủ hẳn phiêu diêu theo những ý niệm huyền hồ. Rõ ràng những điều đó là biểu hiện của một cái tôi muốn chiếm đoạt và chế ngự muốn choàng cái bóng của mình lên tất cả, muốn toàn quyền áp đặt và phân phối cảm xúc của mình lên thế giới xung quanh, gồm thế giới vào ta và biến ta thành tất cả thế giới. Nhưng với Nhỏ rừng, Thế Lữ không chỉ tiếp thu thuần thục kiểu tạo hình mới tràn đầy nhiệt hứng của loại hình thơ lãng mạn mà còn rút tỉa được cả những kinh nghiệm nghệ thuật quý báu của phái Thi sơn
Trang 74
Chỉ ra những điểm giao thoa trong phong cách sáng tác của những trường phái khác nhau được thể hiện trong tác phẩm.
(Lơ Pác-nát-xo - Le Parnasse) vốn thích những đường nét mô tả đầy tính điêu khắc đối với thế giới hữu hình. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được rất rõ cái trương lực được tạo nên bởi cuộc tranh chấp giữa việc buông thả mình theo những cảm xúc say sưa và việc tiết chế chính những cảm xúc đó, không để chúng làm tan loãng khối hình thực có của các đối tượng được nhắc đến. Xét từ góc độ này, có thể nói Thế Lữ không phải là một nhà thơ lãng mạn thuần thành theo kiểu của An-phông-xơ đờ La-mác-tin (Alphonse de Lamartine), An-phrết đờ Muýt-xê (Alfred de Mussct),... Dấu vết ảnh hưởng Lơ-công-tơ đờ Lin-lơ (Leconte de Lisle) không thể nói là không dậm, từ niềm thích thú quan sát những tập tính của động vật đến cách làm nổi bật dáng vẻ uy nghi, bí ẩn của thiên nhiên trong các bài thơ. Nói cụ thể, có lẽ câu thơ “Lượn tấm thân như sống cuộn nhịp nhàng" đã được Thế Lữ viết ra trong sự ám ảnh của các câu thơ của Lơ-công-tơ đờ Lin-lơ: "Đôi khi một con trăn ngủ, nóng quá, uốn lưng như sóng cuộn, vẩy da lấp lánh dưới ánh mặt trời”, “Con voi đầu đàn, đầu như một khối đá, xương sống hình cung, mỗi khi voi bước, lại uốn cong lên một cách mãnh liệt.." (Đàn voi); "... báo đen, kẻ chuyên săn bò và ngựa/ Hung hiểm muộn phiền, nó bước đều đặn quay về/ Theo chiều dài những thân cây già da rêu đã chết/ Nó đến, cọ tấm lưng vạm vỡ oằn lên..." (Giấc mơ của báo đen);...
Nêu và phản biện một số quan điểm đánh giá khác về tác phẩm vốn không dựa trên việc khảo sát mối quan hệ phụ thuộc giữa tác phẩm với phong cách trường phái mà nó thuộc vào.
Từng có ý kiến cho rằng để tô đậm cái phi thường của hình tượng trung tâm (con hổ), nhà thơ đã tạo nên sự tương phản gay gắt giữa tầm vóc oai dũng của hổ với cái tầm thường không chỉ của hoàn cảnh sống nơi vườn bách thú mà còn của “cả bao tạo vật, cảnh trí lớn lao trong vũ trụ”. Các dữ kiện có trong bài thơ cho phép là nhìn nhận vấn đề theo một cách khác. Có một sự phân biệt – đối lập rất rõ ai cũng thấy giữa cảnh hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng với cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, nghĩa là giữa cảnh/ cái nhận tạo với cảnh/ cái tự nhiên. Con hổ chỉ ghét và khinh miệt hoàn cảnh sống tầm thường, giả dối, tù hãm mà nó không may lâm vào chứ không hề chối bỏ, coi rẻ môi trường tồn tại đích thực, nguyên thuỷ của mình. Nếu hổ thấy tất cả đều như nhau, đều không ra gì, chả hoá ra sự phân biệt – đối lập ở trên là vô nghĩa? Con hổ nhớ rừng, gọi rừng là chốn ngàn năm cao cả, âm u, là nước non hùng vĩ, oai linh, ghê gớm,... cơ mà! Bao nhiêu trìu mến tụ về trong câu “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”, và cũng có bao nhiêu nỗi khát khao được chia sẻ với rừng dồn chứa ở tiếng gọi cuối bài – “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Hổ không có rừng thì còn gì là hổ! Rừng là cuộc sống của hổ, là nơi
Trang 75
nuôi dưỡng, giữ gìn, khơi dậy và nhân lên sức mạnh huyền bí của hổ, cho hổ có được cái ý thức mình là chúa tể cả muôn loài, có thể ngự trị, vùng vẫy để làm nên cả một thời oanh liệt... (Lưu ý thêm: Rừng trong sáng tác của các nhà thơ lãng mạn, đặc biệt trong thơ Thế Lữ, luôn là một biểu tượng của sức mạnh nguyên uỷ, của cái tự nhiên mà con người dã đánh mất. Vì vậy, nó thường được đặt ra như một tấm gương giúp người ta thấy được chân diện mục của cảnh sống tình trạng sống bất như ý hiện tại, và từ đó khơi dậy nỗi nhớ nhung hoặc niềm khắc khoải tìm về). Dù được đặt trên cùng một “mặt phẳng” của trang thơ, câu "Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ" và câu “Ta biết ta chúa tể cả muôn loài" chính thuộc về hai cấp độ tứ khác nhau (tứ bao quát toàn bài và tứ bộ phận của đoạn), hướng tới những tiêu điểm nghệ thuật không giống nhau. Câu thơ sau và một số câu khác của đoạn hai như "Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc/ Là khiến cho mọi vật đều im hơi”: “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt/ Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật” không toát lên giọng điệu khinh miệt đối với cả thế giới, mà toát lên ý thức khẳng định uy quyền của một kẻ hiểu sức mạnh của mình và đang có được sức mạnh đó, muốn thi thố sức mạnh đó (theo giấc mộng ngàn thoát ra từ vườn bách thú). Nhận định “Hình ảnh mảnh mặt trời gợi ra được cái nhìn tàn bạo của con hổ muốn giẫm nát cả vũ trụ” (Nam Chi) nếu được chấp nhận thì cũng chỉ nên xem nó như một cách diễn dạt đầy ấn tượng về sự tự tin vào bản thân và khát vọng chiếm hữu toàn bộ thế giới của con hổ (cũng là của cái tôi cá nhân) mà thôi. Không thể diễn dịch nó ra thành cái ý nói về sự đối chọi mang tính chất "khùng điên" của con hổ đối với tất cả. Ngay trong khát vọng muốn chiếm hữu thế giới đã bao hàm thái độ khẳng định cái “đáng kể” của thế giới rồi! Con hổ có ý thức được giới hạn sức mạnh của mình hay không? - Chính tiếng kêu "Than ôi! Thời canh liệt nay còn đâu?" đã nói lên tất cả! Đó là chỗ đáng quý, đáng yêu và đáng thương của hổ. Đó cũng là chỗ giá trị nhân bản, nhân loại của hình tượng con hổ được thể hiện rõ. Từ khát vọng và bi kịch của con hổ, ta đọc thấy khát vọng và bi kịch không chỉ của cái tôi cá nhân một thời mà còn của chung con người trong mọi thời. Khả năng tích hợp ý nghĩa của hình tượng con hổ trong Nhớ rừng quả thực là lớn lao. Ở trên có nói rằng hình tượng này có thể mời gọi một sự "thông diễn” không hạn chế là vì vậy.
Khẳng định giá trị các phẩm như sự kết tinh thành tựu của văn học ở một thời kì nhất định.
(Phan Huy Dũng, Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông – Một góc nhìn, một cách đọc, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009, tr. 104 – 109)
Trang 76
Trả lời câu hỏi
1. Bài viết tìm hiểu đặc điểm phong cách sáng tác của trường phái văn học nào ở bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ?
2. Chỉ ra một số dấu ấn của phong cách sáng tác đã xác định ở trên được tác giả bài viết nhận thấy trong bài thơ.
3. Trong bài viết, những đoạn phân tích nét độc đáo của tác phẩm so với phong cách sáng tác chung của trưởng phải có ý nghĩa gì? Ý nào trong phần Tri thức tổng quát có thể giúp bạn hiểu thêm về vấn đề này?
II. THỰC HÀNH VIẾT
Chuẩn bị
Tên của kiểu bài viết có phạm vi chỉ định rất rộng. Khi chọn đề tài viết, cần xác định phạm vi một cách cụ thể hơn. Mỗi bài viết có thể chỉ cần làm sáng tỏ một phương diện nào đó trong phong cách sáng tác của trường phái mà người viết dự định giới thiệu.
Ngoài các đề tài được gợi ý ở mục Luyện tập, vận dụng trong Phần 1 của chuyện đề này, có thể tham khảo để lựa chọn thực hiện các dẻ tài sau:
(1) Việc thể hiện tính cách nhân vật theo nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực trong một số tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam
(2) Cảm quan hiện thực của nhà văn Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết "Số đỏ"
(3) Hiện tượng "Chí Phèo" trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao nhìn từ mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh
(4) Nhận diện đặc điểm của cái tôi cô đơn trong thơ trữ tình của phong trào Thơ mới 1932-1945
(5) Cảm hứng hoài cổ của chủ nghĩa lãng mạn trong tập truyện ngắn “Vang bóng một thời" của Nguyễn Tuân
(6) Dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực trong thơ của một số nhà Thơ mới Việt Nam
(7) Những dấu hiệu của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại trong một số truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
Qua các đề tài nêu trên, có thể thấy việc xác định một cái lên đích đáng cho đề tài có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp người viết hình dung được sáng rõ về hướng triển khai bài viết.
Trang 77
Một vấn đề quan trọng khác là kiểu bài đòi hỏi người học phải có vốn kiến thức phong phú, biết tìm đọc thêm các tài liệu có liên quan đến đề tài dự định viết, trước hết là tài liệu trình bày tổng quan về phong cách sáng tác của một trường phái, trào lưu, "chủ nghĩa" nào đó, sau nửa là những tác phẩm tiêu biểu của trường phái, trào lưu, "chủ nghĩa" này. Cần ghi chép đầy đủ những thông tin có thể khai thác từ các tài liệu đã đọc, phân loại cứ liệu đã thu thập được để tiện huy động khi viết bài (chú ý xem lại những chỉ dẫn ở Phần 1 của chuyên đề).
Tìm ý, lập dàn ý
Để tìm được những ý cần thiết cho bài giới thiệu, có thể đặt ra và giải đáp các câu hỏi cơ bản sau:
– Trường phái văn học dự định giới thiệu đã nảy sinh, phát triển trong điều kiện nào và đã đạt dược những thành tựu gì? (Hai bài viết tham khảo trong Chuyên đề 3 không "đặt ra" câu hỏi này, vì đây là những sản phẩm viết tự do, trước hết hướng về những độc giả có chuyên môn)
– Có thể tóm tắt như thế nào về phong cách sáng tác của trường phái sẽ được đề cập trong bài giới thiệu? (Hai bài viết tham khảo không trình bày một cách tập trung về các nguyên tắc sáng tác của trường phái, nhưng có cái đặt các ý thể hiện nội dung này ở những vị trí thích hợp. Điều đó chứng tỏ việc nắm chắc phong cách sáng tác của trường phái là điều kiện tiên quyết khi thực hiện kiểu bài này.)
– Dấu ấn của phong cách trường phái đã được thể hiện ra sao và trên những phương diện nào ở tác phẩm được chọn làm "mẫu" phân tích? (Cả hai bài viết tham khảo tuy viết về các tác phẩm thuộc những thể loại khác nhau nhưng đều chú ý đến những dấu ấn rất cơ bản của phong cách trường phái trên các phương diện: cảm hứng sáng tác, chủ đề và
hình tượng trung tâm, quan niệm về con người toát lên qua hệ thống hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc,...)
– Đây là nét độc đáo của tác phẩm được chọn làm "mẫu" phân tích so với những tác phẩm khác cùng trường phái hoặc khác trướng phái? (Bài viết tham khảo "Nhớ rừng" – một bài thơ độc đáo của phong cách lãng mạn chủ nghĩa đã chú ý làm nổi bật vấn đề này qua việc triển khai một số so sánh cần thiết.)
– Có thể nói gì về đóng góp cho phong cách trường phái của tác phẩm được phân tích? (Mỗi tác phẩm lớn, tác giả lớn luôn có những cống hiến nghệ thuật có ý nghĩa cho phong cách sáng tác của trường phải nói riêng và cho sự phát triển của trường phái nói chung.)
Tất cả các ý tìm được sau khi trả lời những câu hỏi trên cần được sắp xếp thành một dàn ý chặt chẽ nhưng đảm bảo tính linh hoạt. Về cơ bản, có thể phân bố các ý cho từng phần
như sau:
Trang 78
– Mở bài: Giới thiệu trường phái và tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của trường phái (tác phẩm sẽ được phân tích trong bài).
– Thân bài: Phân tích lần lượt những phương diện thể hiện rõ dấu ấn phong cách sáng tác của trường phái trong tác phẩm được chọn làm “mẫu".
– Kết bài: Khẳng định khả năng khám phá cuộc sống, con người của phong cách trường phái và đánh giá chung về giá trị của tác phẩm (được phân tích trong bài đã tạo nên uy tín
cho trường phái.
Viết
– Triển khai các ý thành những đoạn văn có dung lượng phù hợp, tuỳ theo tầm quan trọng của ý trong việc làm sáng tỏ định hướng giới thiệu về phong cách sáng tác của trường
phái văn học.
– Nên chú ý vận dụng thao tác so sánh để vừa thấy được tính phổ quát của một nguyên tắc sáng tác nào đó (thuộc phong cách sáng tác của trường phái văn học), vừa nhận ra nét độc đáo của tác phẩm được phân tích.
– Khi đề cập những vấn đề cốt lõi trong phong cách sáng tác của trường phái, cần nêu rõ đóng góp mang tính lịch sử của trường phái cho sự phát triển của văn học, như: mở rộng cái nhìn về cuộc sống, con người; làm giàu có thêm kho tàng thủ pháp nghệ thuật;...
Chỉnh sửa, hoàn thiện
– Dựa vào các tài liệu đáng tin cậy để kiểm tra tính chính xác của những thông tin về trường phái văn học được nêu trong bài viết; sửa lại nếu thấy sai sót.
– Kiểm tra tính chính xác và tiêu biểu của các dẫn chứng; điều chỉnh, thay thế dẫn chứng nếu cần thiết.
– Kiểm tra toàn diện về chính tả, diễn đạt và cách trình bày văn bản.