Trang 8
Yêu cầu
• Hiểu được các hướng nghiên cứu khác nhau đối với văn học hiện đại.
• Lựa chọn được hướng nghiên cứu, đề tài nghiên cứu, xác định được đối tượng và phạm vi nghiên cứu phù hợp.
• Vận dụng được các khái niệm, thao tác nghiên cứu thích đáng để xây dựng đề cương cho một đề tài nghiên cứu văn học hiện đại.
Khái niệm hướng nghiên cứu ở đây mang tính quy ước, chỉ phạm vi đề tài và một số chủ đề có thể nghiên cứu về văn học hiện đại. Khái niệm này đã được nhắc đến trong Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 và Chuyên để học tập Ngữ văn 11. Dưới đây, chuyên đề giới thiệu hai hướng nghiên cứu chính; nghiên cứu cảm quan nghệ thuật trong văn học hiện đại và nghiên cứu cách tân nghệ thuật trong văn học hiện đại. Theo các hướng nghiên cứu này, mọi phân tích – đánh giá cụ thể đều nhằm tới việc giúp bạn có được sự cảm nhận và hình dung bao quát về những đặc trưng của văn học hiện đại.
I. NGHIÊN CỨU CẢM QUAN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
1. Đọc bài viết tham khảo
Thế giới tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu
Trần Ngọc Hiếu
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một gương mặt quan trọng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông không chỉ là cây bút tiêu biểu của văn xuôi thời kì chống Mỹ của nước với các tác phẩm như Cửa sông (1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Dấu chân người lính (1972) mà còn là người mở đường dũng cảm cho văn học thời kì Đổi mới. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu từ cuối thập niên 1970 đã có nhiều đột phá về tư tưởng và nghệ thuật kể chuyện. Những phương diện này đã là đối tượng của một số nghiên cứu có giá trị.
Trang 9
Tuy nhiên, sáng tác của các nhà văn lớn luôn có khả năng khơi gợi những khám phá và diễn giải mới. Vẫn còn có nhiều khía cạnh vi tế trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đòi hỏi sự chú ý và cách tiếp cận mới mẻ hơn.
Giới thiệu vấn đề, cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu.
Bài viết này đi vào nghiên cứu sự thể hiện tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu. Đây là đề tài chưa được quan tâm đúng mức trong các nghiên cứu đã có, mặc dù thế giới của nhân vật người già và ám ánh về tuổi già đã được Nguyễn Minh Châu khắc họa, thể hiện rất đậm nét trên các trang văn của mình. Bài viết sẽ bắt đầu từ việc tìm hiểu ý niệm về tuổi già trong văn hoá, khảo sát thế giới nhân vật và những kí hiệu về tuổi già trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, từ đó, làm nổi bật cảm quan của nhà văn về con người và thời thế trong sự liên hệ với một số nhà văn thời kì Đổi mới cũng có chung mối ưu tư về tuổi già.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm tuổi già
Trình bày các kết quả nghiên cứu chính.
[...] Thực ra không dễ để xác định ý niệm “tuổi già”. Thứ nhất việc một người đến ngưỡng tuổi nào thì được coi là già còn phụ thuộc vào những ngữ cảnh văn hoá nhất định. Ở thời Trung có tuổi thọ con người chưa cao, bởi thi sĩ Đan-té (Dante) đã khẳng định "tuổi thanh niên kéo dài cho tới hai mươi lần, tuổi chín chắn hoàn tất vào năm bốn mươi nhăm, sau đó tuổi già bắt đầu"(1). Rõ ràng cái mốc này không còn thích đáng ở thời hiện lại khi tuổi thọ con người không ngừng được nâng lên. Thứ hai, tuổi già không chỉ được xác định theo những dấu hiệu bên ngoài như da nhăn, mắt kém, tóc bạc, răng long,... mà còn gắn liền với những trạng thái con người tự cảm thấy: ốm yếu, kém minh mẫn, nhiều nếm trải, nhiều kinh nghiệm, có quyền uy (“sống lâu lên lão làng”), bị thất thế, lạc loài,... [...] Thứ ba, tuổi già hoàn toàn cũng có thể được xem như một kiến tạo văn hoá: việc ai đó được coi là người già, việc gán cho tuổi già những đặc điểm, phẩm chất, quyền năng hay giới hạn nào đó thực chất là kết quả của những hoạt động diễn ngôn trong văn hoá. Bên dưới những lớp nghĩa được tạo nên ấy là những nỗ lực củng cố hay làm lung lay những quyền lực Lôn ti, thứ bậc trong đời sống xã hội ở một ngữ cảnh đặc thù. [...]
Diễn giải khái niệm chính được sử dụng trong bài nghiên cứu.
Như vậy, tuổi già là một ý niệm mang tính giao cắt: vừa là một hiện tượng thuộc về quá trình sinh lí của con người, vừa là một kiến tạo văn hóa; vừa biểu hiện ở những đặc điểm và triệu chứng thể chất, lại vừa gắn với những
(1) A. La. Gu-rê-vích (A. La. Gurevich), Các phạm trù văn hoá Trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1956. tr. 129.
Trang 10
trải nghiệm tinh thần đặc thù. [...] Thế giới nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hầu hết đều sống trong tình trạng già đi. Người phụ nữ làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mới chỉ trạc ngoài bốn mươi nhưng “dáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già"; trong Cỏ lau, Lực khi nhìn tấm ảnh cũ chụp mình thời trẻ và nhìn bé Thơm đang đi bên cạnh mình không tránh khỏi cảm giác thấy mình thật “già nua" ở Phiên chợ Giát, lão Khúng nhìn thấy mình như một “lão già ghê tởm" với "thân hình cao vổng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề..." [...]
2. Khủng hoảng hiện sinh của các nhân vật tuổi già
Trình bày các luận điểm chính vô cảm quan hiện đại trong các huyện ngắn viết về tuổi giá của Nguyễn Minh Châu.
Tính bi kịch của nhân vật tuổi già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nằm ở chỗ chính vào khoảnh khắc chạm vào ngưỡng cuối cùng của đời người, họ đối mặt với cuộc khủng hoảng hiện sinh không thể né tránh. Trong Dấu vết nghề nghiệp và Bến quê, nhân vật của Nguyễn Minh Châu đều bị đặt vào những tình huống hạn chế: khi cái đón đợi mình phía trước chỉ còn một khả năng duy nhất – cái chết, điều duy nhất con người có thể làm là nhìn lại quãng đời đã sống. Ở thời khắc ấy, những gì kí ức còn neo giữ lại là thứ làm nhân vật day dứt, thậm chí ân hận hơn cả. Vị cựu thủ môn lão luyện không thể nào quên được cú bắt bóng vụng dại và ngớ ngẩn nhất trong sự nghiệp của mình cũng như cách xử lí tình huống gian lận nhưng độ lượng của vị trọng tài từng là đối thủ của mình trên sân cỏ cũng như trong tình yêu. [...] Điều mà vị cựu thủ môn muốn nói nhất trước khi chết là sự nghiệt ngã và tình người trong bóng đá, có những điều phức tạp hơn, sâu xa hơn bàn thắng – bàn thua mà người ta nhìn thấy trong trận đấu. Trong Bến quê, điều làm Nhĩ đau đớn hơn cả sự hành hạ của thân xác vào ngày cuối cùng trong đời minh là khi nhận ra mình sắp chết nhưng mình thực sự chưa từng sống nếu hiểu sống phải là quá trình con người ta nhận ra ý nghĩa của bản thân đời sống.
2.1. Cảm giác bơ vơ, xa lạ với chính mình
Nêu luận điểm.
Cỏ lau và Phiên chợ Giát – hai tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu sau 1975, cũng là hai tác phẩm đào sâu vào những khủng hoảng hiện sinh xuất hiện đúng vào thời điểm con người chạm ngưỡng của sự già. Trong Cỏ lau, Lực trở về quê hương để làm công việc quy tập thi hài của những người đồng đội nhưng ở đó suốt bao nhiêu năm, những người thân của anh đều nghĩ anh đã chết. Mô típ trở về ở truyện ngắn này cho phép ta liên hệ ở mức độ nào đó với cuộc hồi hương của Uy-li-xơ (Ulysses) trong sử thi Ô-đi-xê (Odyssey). Sau cuộc chiến thành Tơ-roa (Troy), trải mười năm lưu lạc, Uy-li-xơ vượt qua vô vàn thử thách bằng sức mạnh và trí tuệ của mình, để tìm về quê nhà, đoàn tụ với vợ con,
Trang 11
khẳng định tư cách anh hùng của mình. Ngược lại, cuộc hồi hương của Lực – kẻ mất khoảng thời gian gần gấp đôi Uy-li-xơ để trở về sau chiến tranh – là thời điểm đánh dấu những khủng hoảng hiện sinh của nhân vật không phải chỉ ở chỗ người nhà đều tin anh đã chết, vợ anh đã đi lấy người khác mà ở những biểu hiện sâu xa hơn trong làm thức của nhân vật. Trong một tiểu luận về Cỏ lau. Đoàn Cầm Thi đã chỉ ra một khía cạnh của sự khủng hoảng
Phân tích các ví dụ để chứng minh luận điểm.
này ở nhân vật: sự xa lạ với chính mình khi Lực đối diện với tấm ảnh thời trẻ: “Không thể nào không nhận thấy ở Lực sự bất ổn, thậm chí sợ hãi, trước hình ảnh của chính mình: Lực đang biến thành người xa lạ"(1). Tôi muốn nói thêm: chính ý thức về sự già đi của bản thân sau bao năm chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến trạng thái bất ổn đó ở Lực. Song khủng hoảng hiện sinh ấy còn thể hiện ở một khía cạnh khác: Lực đại diện với tình trạng mất ý nghĩa của những gì trong thực lại anh đang thấy, đang chứng kiến khi trở về. Núi Đợi đã được người dân tự động đổi tên thành núi Tử Sĩ – cái tên nhắc đến sự mất một khốc liệt của cuộc chiến vừa qua vùng đất xưa kia là bãi chiến trường nơi con người hi sinh xương máu để chiếm lấy từng tấc đất nay chỉ cỏ lau mọc lên um tùm, rậm rạp, gây khó cho việc tìm hài cốt đồng đội; nơi yên nghỉ của người chết giờ là bãi chiến trường của đám trẻ chăn bò chơi trận giả. Và cuối cùng cuộc chiến mà Lực “không hề mảy may hối tiếc đã dốc hết tuổi trẻ vào đấy mà cống hiến cho nó" nhưng rốt cục, “nó như một nhát dao phạt ngang hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ”. Chấn thương ấy là trạng thái không thể nhìn thấy được từ bên ngoài, nó khiến Lực bơ vơ như khách lạ chính trên mảnh đất cố hương của mình, sự sống sót của mình hoá ra lại chỉ đem đến cho nhân vật mặc cảm tội lỗi khi có thể xáo trộn tất cả những cuộc đời của người khác. Sự trở về không phải là phần thưởng dành cho nhân vật như ta thấy trong sử thi Hô-me-rơ (Hómèros); trái lại ở đây, Lực ý thức việc mình chỉ như "một khách lạ" giống một hình phạt của định mệnh. [...]
2.2. Trạng thái trống rỗng, thất bại, không mục đích
Nêu luận điểm
Phân tích ví dụ để làm sáng tỏ luận điểm.
Đến cuối đời, cái mà người ta nhận ra được là sự mất ý nghĩa của tất cả những gì từng khiến con người phải nhọc lòng. Đó có lẽ là trải nghiệm của lão Khúng trên đường dắt con bò khoang ra chợ. Trong dòng ý thức của lão Khúng, cả cuộc đời của nhân vật được tái hiện và tự đánh giá một cách
(1) Đoàn Cầm Thi, Tôi là kẻ khác: Ảnh và cuộc đi tìm bản thể trong "Cỏ lau" của Nguyễn Minh Châu in trong Đọc "tôi" bên bến lạ, NXB Hội Nhà văn – Công ti cổ phần Văn hoá và Truyền thông Nhà Nam, Hà Nội, 2016, tr. 47.
Trang 12
So sánh, mở rộng vấn đề.
nghiêm khắc nhất, theo đó, cứ như thể toàn bộ lao lực của ông rốt cục giống như hành động đẩy đá của Xi-xi-phu (Sisyphus): người hùng khai hoang một vùng đất cuối cùng vẫn chỉ "sống trong sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát nổi của hoang vu". Cuộc đời vắt sức cho đất hoang rốt cục cũng đi đến kiệt cùng như con bò khoang già nua, vùng đời của nó thực ra đồng dạng với vòng đời của chính lão Khúng. Bởi thế, hành động nhân vật thả con bỏ về rừng hoang thay vì đem bán nó ở chợ để cuối cùng bị làm thịt thành thức ăn cho người, nhất là dân thành thị, có thể xem là cuộc nổi loạn hiện sinh. Việc này khiến toàn bộ hành trình đi từ nhà lúc khuya khoắt đến chợ của lão Khúng trở thành một hành trình vô mục đích và không thể hiểu nổi theo lẽ thông thường.
Trích dẫn tài liệu tham khảo khác để cùng cố cho luận điểm.
Theo Hoàng Ngọc Hiến, hành động này thể hiện “ảo tưởng tự do hoang dã” của lão Khúng, cho dù việc con bò cuối cùng lại quay trở về gặp chủ nó là “sự thất bại não nùng" của ảo tưởng ấy(1). [...] Nhưng khoảnh khắc đột nhiên nhân vật cảm thấy cần phải giải thoát cho con bò chính là lúc ông lão lấy lại sức mạnh nội tại, dù chỉ trước đó thôi, ông còn có cảm giác mình "sắp chết”. Sức mạnh ấy giúp ông dù can đảm để chấm dứt việc tái diễn chu trình và nhân đạo nhưng đã trở nên bình thường, thậm chí bị coi như tất yếu, của đời sống, để còn có thể là người – điều mà ông phải giữ lại dẫu có thể tất cả những thứ khác, dù vô cùng quý giá trong đời ông, như đất đai, con cái, đều mất hết: “Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công việc vô cùng vô nhân đạo. Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt? Lão thấy lão không còn là giống người nữa chứ còn đâu nửa người nửa thú vật? Một lát sau lão không lên án, tự xỉ vả mình nữa mà chỉ thấy trong người mình một cái nhu cầu đầy bức bách tự giải thoát...". Ý thức giữ lại tư cách người ở lão Khúng có thể gợi nhớ đến lão già Xan-ti-a-gô (Santiago) trong Ông già và biển cả của Ơ-nít Hê-minh-uê (Erriest Hemingway) - người chấp nhận đương đầu không cần sức với đàn cá dữ giữa đại dương để không chỉ bảo vệ thành quả lao động của mình mà để khẳng định sự kiện định của việc làm người: "Con người có thể bị huỷ diệt, nhưng không thể bị đánh bại”. [...] Lão Khúng, vì thế, có thể xem là hình tượng người già cứng cỏi còn trụ lại trong thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu, dù thực chất, khác hẳn với ông lao Xan-ti-a-gô của Hê-minh-uê, lão không được nhà văn tạo hình như một mẫu nhân vật chiến bại anh hùng trong cuộc hiện sinh.
(1) Hoàng Ngọc Hiến, Đọc Nguyễn Minh Châu (từ "Bức tranh" đến "Phiêu chợ Giát"), in trong Nguyễn Minh Châu và tác giả và tác phẩm, Nguyễn Trọng Huân (giới thiệu và tuyển chọn), NXB Giáo dục Hà Nội, 2007, 9.216
Trang 13
2.3. Trải nghiệm sớm hồi và ý thức chuộc tội
Nêu luận điểm.
Khủng hoảng hiện sinh ở nhân vật tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu còn được khắc hoạ ở những trải nghiệm ăn năn sám hối và ý thức chuộc tội. Ở trên, tôi đã nói đến mặc cảm tội lỗi ở Lực bởi chính sự sống sót của anh sau chiến tranh có thể phá vỡ cuộc sống mà anh nghĩ đã yên ổn. Nhưng sâu xa hơn, chính cuộc chiến tranh mà Lực trải qua cũng là nguồn gốc của mặc cảm trong anh: nó không hề là kì tích, chiến công dù anh trở về đây trong tư cách của người thắng trận. [...] Kết thúc Cỏ lau là một tưởng tượng của Lực về tương lai của mình, nơi anh chấp nhận sẽ sống về già trong cô độc và trong trách nhiệm chịu tội: đó là thế giới nơi chỉ có anh và người cha già sống những ngày cuối đời cùng nấm mộ của Phi. Phiên chợ Giát cũng mở đầu bằng cảm giác tội đồ của lão Khúng khi giật mình khỏi cơn ác mộng mà ở đó, lão nhìn thấy mình như một hung thần đang giương cây búa to nặng để đập chết bò khoang.
Phân tích ví dụ để làm sáng tỏ luận điểm.
Nỗi sợ hãi bởi cảm giác như thấy phần tối tăm nhất trong con người mình, khả năng trở nên ác độc, tàn nhẫn của chính bản thân khiến lão bàng hoàng “Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn sám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Đằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn tên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.”. Nỗi sợ hãi trước chính mình này có thể xem là cơ chế tâm lí bề sâu chi phối quyết định tưởng như đột nhiên và có vẻ "điên rồ” của lão Khúng khi giải thoát cho bò khoang ở cuối truyện. Nội tâm của nhân vật không chỉ dày đặc nỗi day dứt khi nghĩ về mối quan hệ giữa mình với con bò đã gắn bó cả đời mà còn trĩu nặng những niềm áy náy khi nghĩ đến những đứa con, đặc biệt sự ăn hận khi nghĩ về Dũng – đứa con hi sinh nơi xứ người. Những lí do cao cả không đủ khỏa lấp được nỗi đau trần trụi của một người cha mất con và cũng có thể mất luôn ảo ảnh về con khi lão không có dù chỉ một tấm hình của còn chụp khi còn sống
[...] Những chi tiết về thế giới người già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thực ra có thể nói lên một số thay đổi quan trọng trong khung tư duy của nhà văn khi ta thử làm phép so sánh với những hình tượng cùng loại trong sáng tác của một số nhà văn ở thập niên 1980. Trong kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ [...], Trương Ba có thể lạc lõng trong nhà nhưng không lạc loài, sự lựa chọn của ông - chấp nhận
Trang 14
tan vào hư vô hơn là duy trì sự tồn tại trong hình hài vay mượn của kẻ khác – ít nhiều còn có thể lay tỉnh con cái và đặc biệt khiến ông kết nối lại được với thế hệ cháu mình. [...] Đến Nguyễn Minh Châu, người già mất con trong và sau chiến tranh, theo cả nghĩa den lẫn nghĩa bóng. Nó là tự sự của những người già côi cút, bất lực với chính những đứa con của mình. Tướng Thuấn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp thấy mình "lạc loài" trong thời bình, không thể thích nghi với tất cả những phức tạp, nhốn nháo của thời bình, [...] Sự suy giảm trọng lực của tiếng nói và vị thế của người già từ Lưu Quang Vũ qua Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Huy Thiệp phản ánh sự biến động về cảm quan đạo đức ở mỗi nhà văn tương ứng với nhận thức của họ về những rạn nứt, xáo trộn về giá trị của xã hội hậu chiến. Điều này, đến lượt mình, dẫn đến sự khác nhau cơ bản về tính chất bức tranh thế giới trong sáng tác của ba nhà văn. Thế giới trong kịch Lưu Quang Vũ ở trạng thái có thể bắt bệnh và chữa lành lại, đó là nơi sự hoà giải thế hệ có thể diễn ra. Thế giới của Nguyễn Minh Châu là thế giới nơi con người phạm lỗi, mê lầm, nó đòi hỏi sự ăn năn, sám hối và điều này được tự giác thực hiện trước hết bởi những người đã đi gần hết chặng đời của mình. Thế giới của Nguyễn Huy Thiệp đối lập với thế giới của Lưu Quang Vũ ở chỗ nó mất đi ảo tưởng lãng mạn về khả năng chữa lành những căn bệnh của xã hội. [...]
So sánh, mở rộng vấn đề.
KẾT LUẬN
Tóm tắt nội dung chính; mở rộng, nâng cao vấn đề.
Thế giới tuổi già trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là thế giới mang nhiều nếm trải bi kịch. Có nhiều lí do để Nguyễn Minh Châu quan tâm đến lát cắt đặc biệt này của đời người, trong đó, hẳn phải nhắc đến việc ở ngưỡng cuối cùng này, con người cần thiết phải sống thành thật, không được phép chạy trốn việc đối diện với chính mình. Sự trung thực là phẩm giá mà ông đòi hỏi ở nhân vật của ông trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa của đời mình. Song đó cũng chính là yêu cầu mà ông tự đặt ra cho bản thân, thậm chí ở mức độ cao nhất. Đó cũng là điều quan trọng làm nên sức sống của trang văn Nguyễn Minh Châu qua thời gian.
Tài liệu tham khảo
1. A. Ja. Gu-rê-vích (1996), Các phạm trù văn hoá Trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Giăng Si-va li-ơ (Jean Chevalier) – A-lanh Ghia-bran (Alain Gheerbrant) (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng – Trường viết văn Nguyễn Du.
3. Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.
Trang 15
4. Nguyễn Trọng Hoàn (giới thiệu và tuyển chọn, 2007), Nguyễn Minh Châu - Về tác gia và tác phẩm. NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Đoàn Cầm Thi (2016), Đọc "tôi" bên bến lạ, NXB Hội Nhà văn – Công ti cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.
(Trần Ngọc Hiếu, tạp chí Sông Hương, số 374, tháng 4/2020)
Trả lời câu hỏi
1. Xác định đối tượng, phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận của lác giả.
2. Khái niệm chính được sử dụng trong bài viết là gì? Tác giả đã diễn giải khái niệm đó như thế nào?
3. Khái quát những kết luận chính của tác giả. Tác giả căn cứ vào dấu để đưa ra những kết luận đó?
4. Tác giả đã sử dụng những thao tác nào để làm sáng tỏ các luận điểm chính?
5. Các trích dẫn, tài liệu tham khảo được trình bày như thế nào và có ý nghĩa gì?
2. Thực hành nghiên cứu
2.1. Tìm hiểu khái niệm
Cảm quan nghệ thuật
Cảm quan nghệ thuật là tổng hoà những sự cảm nhận, quan niệm, lí giải về thế giới và con người của chủ thể sáng tạo. Cảm quan nghệ thuật được thể hiện thông qua cách xây dựng hệ thống nhân vật, hình ảnh, biểu tượng; sử dụng các mô típ không gian, thời gian; tổ chức điểm nhìn; lựa chọn giọng điệu,... trong tác phẩm văn học.
Cảm quan nghệ thuật trong văn học hiện đại
Nếu như văn học trung đại thường miêu tả con người trong mối quan hệ hoà hợp với vũ trụ, tôn giáo, chuẩn mực đạo đức của cộng đồng, thì văn học hiện đại quan tâm tới con người cá nhân với sự phong phú, phức tạp của cảm xúc, cảm giác, thậm chí của tiềm thức, vô thức; mô tả những chiều kích trần thế của con người như thân thể, bản năng,...;
Trang 16
nhấn mạnh sự độc lập tư tưởng của con người. Ví dụ, Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam đi sâu khám phá thế giới vô cùng phong phú và tinh tế của cảm giác khi Thanh trở về căn nhà đã gắn bó với mình từ thời thơ ấu. Trong Chí Phèo, Nam Cao chú ý miêu tả những trạng thái phi lí trí của con người: nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức của Chí Phèo khi bước chân vào nhà bá Kiến sau khi ra tù, cuộc sống chìm trong vô thức của Chí Phèo lúc làm tay sai cho bá Kiến, hành động đến nhà bá Kiến để trả thù,... Sự đề cao cá nhân, đối lập cá nhân với toàn bộ tồn tại cũng tạo nên cảm thức cô đơn, bất an thường trực trong văn học hiện đại.
Cát-xpa Đa-vít Phri-ê-đrích (Caspar David Friedrich), Kẻ lãng du trên biển sương mù, 1818 Nguồn: http://artsy.net
Nếu thời gian trong văn học trung đại là thời gian vũ trụ, mang tính chất tuần hoàn, thời gian quá khứ lịch sử đã hoàn tất, thì thời gian trong văn học hiện đại gắn liền với cảm thụ của cá nhân về thế giới. Văn học hiện đại đề cao hiện tại, nhấn mạnh sự trôi chảy, một đi không trở lại của thời gian, thể hiện nỗi lo âu, bất an của con người trước sự phôi pha của thời gian "Cái bay không đợi cái trôi/ Từ tôi phút trước sang tôi phút này" (Xuân Diệu). Miêu tả thời gian gắn với cảm thụ cá nhân về thế giới, văn học hiện đại cũng phát hiện ra sự biến dạng của thời gian trong ý thức con người. Đi tìm thời gian đã mất của Mác-xen Prút (Marcel Proust), Uy-li-xơ của Giêm Gioi-xi (James Joyce). Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu,... đều miêu tả dòng thời gian không ngừng bị đảo ngược, kéo căng, dồn nén, dứt đoạn,... theo dòng ý thức của nhân vật. Nếu không gian trong văn học trung đại chủ yếu là không gian vũ trụ, thì không gian trong văn học hiện đại là không gian cá nhân, gắn liền với cảm xúc, trải nghiệm, cảnh ngộ, số phận của mỗi cá nhân. "Rừng" trong Nhớ rừng của Thế Lữ gắn liền với niềm khao khát tự do của con hổ bị giam cầm. "Nhà" trong thơ Xuân Quỳnh là không gian ấm củng của tình yêu. Văn học hiện đại cùng tái hiện một hiện thực rất đa dạng, trong đó có cả huyền thoại, những điều phi lí, bất khả giải.
Nếu văn học trung đại đế cao sự khuôn mẫu, những chuẩn mực của quá khứ, truy tìm một cái đẹp thuần khiết, thì văn học hiện đại đề cao cái đẹp mang tính chất cá biệt, coi trọng
Trang 17
sự độc đáo, phá cách, mới mẻ, miêu tả cái đẹp trong sự dung hợp với cái xấu, cái nghịch dị, thô kệch. Quan niệm thẩm mĩ này được thể hiện qua sự đa dạng và cách tân không ngừng của thể loại, các khuynh hướng sáng tác, các thủ pháp nghệ thuật.
2.2. Xác định đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Xác định đối tượng nghiên cứu
Quan niệm về cái hoang dã trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp.
Xác định phạm vi nghiên cứu
Quan niệm về cái hoang dã trong "Muối của rừng" của Nguyễn Huy Thiệp.
Xác định mục đích nghiên cứu
Nguyễn Huy Thiệp đã mang lại cái nhìn mới về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
– Xác định đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là sự vật, hiện tượng cần được xem xét, khảo sát trong một đề tài khoa học. Bởi nghiên cứu cảm quan nghệ thuật trong văn học hiện đại là hướng tiếp cận phương diện chủ thể của sáng tạo nghệ thuật nên có thể lựa chọn đối tượng nghiên cứu là một quan niệm, triết lí, cách kiến giải của nhà văn về thế giới, con người, cái đẹp (ví dụ: Nghiên cứu quan niệm về tuổi trẻ trong thơ Xuân Diệu; Nghiên cứu cái nhìn về chiến tranh trong tác phẩm của Bảo Ninh; Nghiên cứu quan niệm về cái đẹp trong tác phẩm của Nam Cao; Nghiên cứu quan niệm về cái hoang dã trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp,...); hoặc nghiên cứu quan niệm, diễn giải của nhà văn về thế giới và con người được biểu đạt một cách gián tiếp qua hệ thống hình tượng, biểu tượng trong tác phẩm (ví dụ: Nghiên cứu về kiểu nhân vật anh hùng trong văn học cách mạng; Nghiên cứu về vườn trong Thơ mới;..).
– Xác định phạm vi nghiên cứu: Để có thể khảo sát được một cách kĩ lưỡng về vấn đề, cần đặt ra những giới hạn cho đề tài nghiên cứu sao cho phù hợp với năng lực, thời gian và điều kiện của mình. Chẳng hạn, khi nghiên cứu quan niệm về cái hoang dã trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp, có thể giới hạn phạm vi đề tài vào một tác phẩm (ví dụ: Muối của rừng), hoặc một nhóm tác phẩm (ví dụ: các truyện ngắn trong tập Những ngọn gió Hua Tát).
– Xác định mục đích nghiên cứu: Cần trả lời câu hỏi Nghiên cứu để làm gì? Ví dụ, khi nghiên cứu đề tài Quan niệm về cái hoang dã trong "Muối của rừng" của Nguyễn Huy Thiệp, mục đích nhằm khẳng định: Nguyễn Huy Thiệp đã mang lại cái nhìn mới mẻ vẻ tự nhiên so với các tác giả của giai đoạn văn học trước, thậm chí so với các nhà văn cùng thời.
Trang 18
2.3. Thu thập, phân tích và xử lí thông tin
Ngoài việc đọc các tài liệu nghiên cứu về vấn đề bạn quan tâm, cần đọc kĩ các tác phẩm văn học nhằm nhận diện yếu tố thể hiện cảm quan nghệ thuật trong tác phẩm. Dưới đây là một số gợi ý:
– Nhận diện quan niệm nghệ thuật về con người được thể hiện qua cách miêu tả nhân vật, tổ chức hình tượng, sử dụng biểu tượng, điểm nhìn; qua cách nhận xét, đánh giá của người trần thuật hoặc nhân vật trữ tình. Ví dụ: Trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng tô đậm sự đối lập giữa vẻ ngoài thượng lưu, học thức của nhân vật với bản chất lưu manh, ngu dốt bên trong. Cách miêu tả này làm nổi bật một thế giới trống rỗng, giả dối, nơi mỗi con người chỉ là một con rối trong tấn trò đời. Thông qua bức tranh thế giới đó, ta nhận ra cái nhìn mang tính chất phê phán, đả kịch của Vũ Trọng Phụng.
– Nhận diện quan niệm nghệ thuật về thế giới được thể hiện qua những biểu tượng lặp đi lặp lại: qua các mô típ không gian, thời gian, cốt truyện trong tác phẩm. Ví dụ: “Vườn" là một không gian quen thuộc trong Thơ mới; khác với vườn trong văn học trung đại thường được miêu tả như một chốn về" sau những vật lộn mệt mỏi với đời, nơi con người tìm thấy sự bình an và hợp nhất với thiên nhiên, vườn trong Thơ mới có một giá trị khác, thường gắn liền với cảm thức cá nhân: ở thơ Nguyễn Bính, vườn là nơi bảo lưu những giá trị truyền thống; ở thơ Xuân Diệu, vườn là trần gian đầy thanh sắc. Cách miêu tả không gian vườn trong các tác phẩm văn học hiện đại thể hiện rõ cách cảm nhận riêng của mỗi nhà văn về thế giới và con người.
– Nhận diện quan niệm thẩm mĩ được thể hiện qua cách xây dựng hình tượng: cách sử dụng ngôn từ, các thủ pháp nghệ thuật,... Ví dụ: Trong các tác phẩm của Nam Cao, nhân vật thường hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch, bị hoàn cảnh làm biến dạng, nhưng sâu bên trong lại là một tâm hồn vị tha, tự trọng, khát khao sống lương thiện. Qua cách miêu tả nhân vật đó, ta có thể nhận ra quan niệm riêng của Nam Cao về cái đẹp: cái đẹp có thể tồn tại trong hình hài của cái xấu, cái nghịch dị; cái đẹp thực sự không nằm ở dáng vẻ bề ngoài mà nằm ở phẩm giá, nhân cách,..
Ngoài ra, để lí giải, cắt nghĩa căn nguyên của những cảm quan nghệ thuật riêng biệt, độc đáo đó, cần đọc thêm các tài liệu về tiểu sử nhà văn, bối cảnh thời đại, các tư tưởng triết học, tôn giáo, nghệ thuật ảnh hưởng đến thế giới quan, nhân sinh quan, Ií tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Trong khi đọc, cần sử dụng các thao tác thu thập, phân tích và xử lí thông tin đã được hướng dẫn trong sách giáo khoa Chuyên đề học tập Ngữ văn lớp 10 và lớp 11 để lĩnh hội thông tin một cách hiệu quả.
Trang 19
II. NGHIÊN CỨU CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
1. Đọc bài viết tham khảo
Ông già và biển cả – cốt truyện và điểm nhìn; hiện thực và biểu tượng
Đặng Anh Đào(1)
Cách đặt vấn đề ngắn gọn, súc tích nhưng giàu tính thông tin.
Nếu xét trên bề mặt, thì Ông già với biển cả ít có mối liên hệ chặt chẽ với một số tiểu thuyết trước đó của Hê-minh-uê như Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai,... hoặc một số truyện ngắn như Năm người người đó là, Người không thể chiến bại, Bạn giết người,... Nhưng nếu xét sâu hơn, thì những nét mới mẻ và độc đáo ở đây vẫn chỉ là sự phát triển một số nét đặc sắc về kiểu người anh hùng, về nghệ thuật kể chuyện vốn đã tiềm tàng từ trước ở tác phẩm của ông. Sau khi viết cuốn tiểu thuyết này ông được giải Nô-ben (Nobel) vào năm 1954.
Ông già và biển cả là một cuốn truyện độc đáo, trước hết ở tính chất gần như không có cốt truyện của nó. Nếu quan niệm cốt truyện như sự phát triển của những sự kiện, biến cố gắn bó với nhân vật trong sự vận động của thời gian (thậm chí có lúc nó đã được định hình trong một kết cấu có tên gọi là kết cấu dramatic(2) gồm năm thành phần như trong một vở kịch truyền thống, rất tiêu biểu ở tiểu thuyết thế kỉ thứ XIX trở về trước) thì quả thật Ông già và biển cả đã thể hiện quá trình hủy diệt cốt truyện ở thế kỉ XX một cách rõ rệt hơn Giã từ vũ khí. Có lẽ sự khác biệt trong khi xác định thể loại của cuốn truyện này trong ý kiến của các nhà nghiên cứu, khi thì xếp nó ở truyện ngắn, khi thì xếp ở tiểu thuyết một phần là do tính chất loãng cốt truyện ở đây, hơn là vì vấn đề độ dài của văn bản (khoảng 27 000 từ).
Luận điểm được triển khai từ nhiều góc độ.
Ngay truyện ngắn, cũng có những tác phẩm trong đó cốt truyện khá chặt chẽ, căng thẳng. Ông già và biển cả gần giống với thơ nhiều hơn, còn do một nét đặc sắc khác nữa ở nghệ thuật hư cấu nhân vật. Hê-minh-uê ngay từ lúc mới cầm bút, đã chú ý để cho
(1) Đặng Anh Đào (1534 – 2023) là nhà nghiên cứu và dịch giả văn học phương Tây; tác giả của một số chuyên luận: Tài năng và người thưởng thức (1994), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại (1995); đồng tác giả của các công trình: Lịch sử văn học Pháp (1951 – 1992), Văn học phương Tây (1992),...
(2)Dramatic: kịch tính; kết cấu dramatic là kết cấu năm thành phần trong một vở kịch truyền thống giới thiệu thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút.
Trang 20
nhân vật hành động, tự nói lên chính mình, trong đó đối thoại cũng là một kiểu hành động. Bởi thế, đã có những tác phẩm nổi tiếng về đổi thoại như Giã từ vũ khí, Mặt trời vẫn mọc, những truyện thuần tuý xây dựng trên đối thoại như Thiên đường đã mất (lần đầu tiên in năm 1927 dưới cái tên Những ngọn đồi tựa đàn voi trắng). Điểm nhìn ở đó đặt từ bên ngoài vào. Ở Ông già và biển cả, điểm nhìn được di dộng vào bên trong, bởi lệ hành động bên ngoài rất đơn giản, dường như toàn bộ hành động diễn ra ở bên trong nhân vật. Mỗi khi điểm nhìn đã di động vào bên trong, thì cốt truyện – theo quan niệm truyền thống, dựa trên sự phát triển của tình tiết – rõ ràng là bị giảm nhẹ.
Sử dụng thao tác so sánh.
Các lí lẽ, dẫn chứng được trình bày để chứng minh cho luận điểm.
Tất cả bề dày, chiều sâu của nhân vật được gợi lên qua một hình thức ngôn từ của nhân vật đặc biệt phát triển ở cuốn truyện này: đó là độc thoại nội tâm. Những ý nghĩ ở đây cũng hết sức giản dị và giống như một sơ đồ phản ánh tức thời hành động đánh cá. Tuy thể, xen lẫn vào đó, vào những suy nghĩ tưởng chừng như rất đơn giản về cá, về biển, là những chân lí lớn lao mà con người thử nghiệm ở thời đại này: “Không ai phải cô đơn nơi biển cả”. Suốt đời suy nghĩ trăn trở về nỗi cô đơn, từ Hen-ri (Henry) đến Rô-bốt Gio-đan (Robert Jordan), nay nhân vật trung tâm của Hê-minh-uê đã rút ra kết luận như vậy. Dù không ở chiến trường chống phát xít như Rô-bớt Gio-đan, nhưng vẫn có một mạch ngầm nối liền Xan-ti-a-gô với người chiến sĩ chống phát xít ấy.
Những quan hệ xã hội ở đây chỉ còn xuất hiện xa xôi và gián tiếp qua những mảnh hồi ức rời rạc, trong độc thoại có thể xuất hiện qua quan hệ giữa các nhân vật. Ở tác phẩm này, mối liên hệ giữa các nhân vật xuất hiện rất ít, chủ yếu qua ông già Xan-ti-a-gô và chú bé Ma-nô-lin (Manolin), và cũng chỉ xuất hiện trực tiếp ở đoạn đầu và đoạn cuối mà thôi. Vả chăng, mối liên hệ ấy hoàn toàn không gợi lên cái mà trong chủ nghĩa hiện thực, người ta coi là một hoàn cảnh điển hình: cuộc đấu tranh xã hội. Ngay cả hình ảnh những khách du lịch ở khách sạn Thê-rếch-xơ (Terrace) xuất hiện ở cuối truyện - qua một vài mảnh đối thoại – cũng không nhằm gợi lên mối quan hệ ấy, mà chỉ gợi lên sự cô đơn của người anh hùng kiểu Hê-minh-uê giữa cảnh đời xa lạ mà thôi.
Hoàn cảnh là một khái niệm vừa có ý nghĩa không gian, vừa có ý nghĩa thời gian. Không gian choán ngập những trang sách này là biển cả và bầu trời, còn lùi ra phía xa xăm, là những ánh sáng của hải cảng La Ha-ba-na (La Habana), là những ánh điện thấp thoáng của khách sạn Thê-rếch-xơ. Ở đây, cũng như nhiều cuốn tiểu thuyết khác của
Trang 21
Hê-minh-uê, nhà văn dường như chỉ chớp lấy thời gian hiện tại, thời gian trước mắt, cái “tại đây – bây giờ". Điều đó khiến thời gian sự kiện được giới hạn rất chặt hẹp: cả dộ dài của gần một trăm trang sách chỉ dành cho một câu chuyện dài ba ngày ba đêm. Và bởi lẽ thời gian ấy luôn chảy trong dòng tâm tư của một nhân vật nói chuyện với chính mình, nên không những thời gian lịch sử mà cả thời gian lịch biểu cũng bị đẩy lùi ra đằng sau.
Kết nối vấn đề đang được bàn luận với các vấn đề liên quan rộng lớn hơn.
Thời gian tương lai, chiều thứ ba của thực tế ở đây xuất hiện một cách hàm ẩn, qua một biểu tượng chú bé Ma-nô-lin. Và khi gắn biểu tượng tương lai vào hình ảnh một chú bé dễ thương đến như thế – người bạn thân thiết gần gũi nhất của ông già – Hê-minh-uê đã gửi gắm vào đó biết bao tinh thần lạc quan! Nhà văn của "thế hệ vứt đi" không hoàn toàn là một kẻ yếm thế, chán chường: “Một thế hệ qua đi, một thế hệ tiếp đến, và trái đất mãi mãi bền vững"; không phải ngẫu nhiên mà ông đã đặc biệt yêu mến những câu văn ấy trong Kinh Thánh.
Sử dụng trích dẫn làm tăng sức thuyết phục cho luận điểm.
Những lời độc thoại nội tâm của ông già không hoàn toàn biểu hiện một trạng thái cô đơn, khép kín. Đây là một cách đối thoại với chú bé Ma nô lin đang ở xa, với trời mây, với biển cả, hoặc với những đối tượng “phi nhân” (cá nước, chim trời,...) và bởi thế cuộc đối thoại này đã nhân hoá chúng. “Con người bị kết án phải chết và phải sống, nhưng họ có thể tìm thấy nguồn khuây khoả trong ý nghĩ mà Rô-bớt Gio-đan đã linh cảm thấy và ông già đánh cá biết thử nghiệm đến cùng, khi hiểu được rằng không ai phải cô đơn nơi biển cả. Tiếp nối ý niệm về sự cô đơn không thể tiêu diệt nổi của nhân vật, kết thúc tác phẩm này là suy tưởng về sự liên kết toàn vũ trụ; nó gắn bó với tất cả mọi vật và mọi người"(1).
Phân tích các phương diện khác nhau để làm rõ tính chất "biểu tượng" của nhân vật.
Bởi thế, nếu coi ông già là một biểu tượng thì sự đánh giá ấy có phần đúng. Dù ngôn từ của nhân vật có xen lẫn nhiều thổ ngữ - Hê-minh-uê là một nhà văn biết rất nhiều thứ tiếng và ông đặc biệt yêu tiếng Tây Ban Nha - những tiếng địa phương ở đây vẫn không nhằm cá thể hoá nhân vật, mà nó giống như những lời phù chú, những tiếng hò dô đệm cho động tác của người đang lao động. Tác giả đã vẽ nên hành động của ông già ở những nét đại lược nhất,
(1) Rơ-nê A-xơ-li-nô (Rene Asselineau), Hê-minh-uê, in trong Encyclopedia Universalis (Bách khoa toàn thư, tiếng Pháp), tập 5, Encyclopedia Britannica, 1997, tr. 317.
Trang 22
Các bình luận mang tính liên tưởng.
giống như một sơ đồ về hành động của người ngư phủ nói chung. Bởi thế, khi mô tả ngoại hình nhân vật, Hê-minh-uê cũng không đẩy tới độ cá thể hóa nhân vật: rất khó giữ lại một gương mặt cụ thể, riêng biệt về “con người này” ở đây. Cách Hê-minh-uê miêu tả lại bàn tay giang thành hình chữ thập thâm bầm nứt nẻ của ông già khiến có những người liên tưởng tới hình ảnh Chùa bị đóng đinh câu rút. Ngay cái tên của ông già cũng không gợi lên sự cá thể hoá, mà giống như một biểu tượng: Xan-li-a-gô là ghép âm của hai chữ Thánh Igo (Saint Igo). Đến lượt mình, tính chất biểu tượng cũng góp phần làm thay đổi màu sắc thời gian ở đây. Nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý đến lối mở đầu giống như trong một ngụ ngôn cổ xưa, giống như một huyền thoại: “Ông lão đánh cả chỉ có một mình với chiếc thuyền trên dòng Gơn Xtrim (Gulf Strom). Vậy là đã tám mươi tư ngày ông đi biển và không đánh được một con cá nào...". Kết thúc tác phẩm, tuy đoạn đối thoại của những du khách ở khách sạn Thê-rếch-xơ có gợi một không khí dung tục, nhưng những câu kể chuyện cuối cùng lại tái hiện không khí của những câu mở đầu: “Phía ngoài đường, trong cái lán của mình, ông lão lại đang ngủ tiếp. Lão vẫn ngủ trong tư thế úp mặt xuống và thằng bé ngồi bên cạnh nhìn lão ngủ, Lão đang mơ về những con sư tử". Có lẽ chính do không khí huyền thoại xuất hiện đầu truyện mà một vài bản dịch ở Việt Nam và ở Pháp có chua thêm mấy chữ "Ngày xửa ngày xưa..." vào câu đầu tiên. Không khí tắm trong màu sắc siêu thời gian.
Sử dụng kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác.
Tất cả những yếu tố trên góp phần khiến cho hình tượng Xan-ti-a-gô – dù được gợi lên từ một ông già Cu Ba – vẫn gắn với một biểu tượng. Có điều chắc chắn là cái tên của ông, bàn tay rách nát và động tác của ông dù có gọi lên hình ảnh Chúa bị đóng đinh cầu rút, thì Xan-ti-a-gô vẫn không hẳn là một biểu tượng tôn giáo. “Lòng dũng cảm ý chí quyết thắng sự hợp đồng lớn lao với biển, với đất và trời, cá và chim: tác phẩm khích lệ những tình cảm gian dị và thuần khiết ấy, dù có lấy khung cảnh nước ngoài chăng nữa, vẫn mang tính chất Mỹ một cách sâu sắc” (Mi-sen Mô-hớt - Michel Mohort). Cao hơn thế, Xan-ti-a-gô giống như một biểu tượng về cuộc đấu tranh của con người hiện đại trên thế giới này: suốt cuộc đời cực nhọc vẫn theo đuổi một giấc mơ kì vĩ, mà khi ông lão săn được một con cá lớn như trong huyền thoại, kéo được nó vào bến bờ của thực tại, thì những con mắt thờ ơ lãnh đạm chỉ còn nhìn thấy được phần rách nát xương xẩu của nó. Tuy nhiên, bên cạnh ông
Kết bài theo hướng tổng kết và gợi mở.
Trang 23
vẫn còn chú bé Ma-nô-lin đang nhìn ông mơ giấc mơ sư tử, đang khóc vì bàn tay rách nát của ông,... Người ta nhìn thấy qua Ông già và biển cả một bản di chúc của con người đã suốt đời lao động sáng tạo và hiểu nỗi đắng cay của con người ở giữa cuộc đời này, là Hê-minh-uê.
(Đặng Anh Đào – Hoàng Nhân – Lương Duy Trung – Nguyễn Đức Nam – Nguyễn Thị Hòang - Nguyễn Văn Chính – Phùng Văn Tửu, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 719 – 722)
Trả lời câu hỏi
1. Nhan đề “Ông già và biển cả" - cốt truyện và điểm nhìn; hiện thực và biểu tượng cho bạn biết gì về phạm vi nghiên cứu của bài viết?
2. Mục đích của bài viết được thể hiện như thế nào trong phần mở đầu?
3. Bài viết đã phân tích các yếu tố nghệ thuật nào trong tiểu thuyết Ông già và biển cả? Từ những phân tích đó, tác giả đã rút ra những kết luận gì?
4. Dựa vào những hiểu biết của bạn về văn học hiện đại đã được học trong chuyên đề, hãy bình luận về nhận định ở phần kết: "Xan-ti-a-gô giống như một biểu tượng về cuộc đấu tranh của con người hiện đại trên thế giới này”.
5. Sau khi đọc bài viết, bạn có hứng thú tìm đọc thêm các tác phẩm khác của Hê-minh-uê không? Tại sao?
2. Thực hành nghiên cứu
2.1.Tìm hiểu khái niệm
Cách tân nghệ thuật là những đổi mới, sáng tạo trong các tác phẩm nghệ thuật trên nhiều phương diện như thể loại, ngôn từ, thủ pháp, kĩ thuật biểu đạt,... Do ý thức đề cao cá tính, coi trọng sự tự do biểu đạt của người nghệ sĩ, văn học hiện đại có rất nhiều cách tân, thậm chí là đột phá về nghệ thuật.
Về thể loại, các nhà văn hiện đại có xu hướng phá vỡ những quy phạm, chuẩn mực của các thể loại truyền thống và không ngừng sáng tạo ra những thể loại mới như thơ tự do, phóng sự, truyện ngắn, truyện cực ngắn, tiểu thuyết điện ảnh, kịch tự sự, kịch phi lí,... Cấu trúc các thể loại cũng biến đổi một cách linh hoạt nhằm biểu đạt sự tự do sáng tạo và phong cách nghệ thuật riêng của từng nhà văn.
Về ngôn từ và thủ pháp nghệ thuật, văn học hiện đại khước từ những công thức, ước lệ, phát hiện ra những cách diễn đạt mới, khám phá những giới hạn mới của ngôn từ bằng
Trang 24
những thử nghiệm nghệ thuật mang tính chất đột phá. Các nhà thơ tượng trưng sử dụng các biểu tượng, ám dụ để tạo nên sự mơ hồ, nhòe mờ về nghĩa, giúp văn học có thể diễn tả được sự màu nhiệm của vũ trụ và thế giới bí ẩn của trực giác. Các nhà thơ siêu thực lại thực hành lối viết tự động. Các nhà thơ đã đã sáng tạo thơ ca bằng cách kết hợp và sắp đặt ngẫu nhiên các từ ngữ trong từ điển. Mác-xen Prút, Giêm Gioi-xi, Uy-li-am Phoóc nơ (William Faulkner), Ka-oa-ba-ta (Kawabata), Bảo Ninh,... sử dụng kĩ thuật dòng ý thức trong trần thuật tạo nên dòng chảy của những tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng đan bện vào nhau tưởng như phi logic, phá vỡ tính chất tuyến tính của cốt truyện và sự xác định của nhân vật. Ban-dắc, Cáp-ca, Mác-két, Nguyễn Huy Thiệp,.. sử dụng huyền thoại như một phương thức nghệ thuật để sáng tạo nên một hiện thực khác, vượt ra ngoài hiện thực có thể được tri giác bằng lí trí và các giác quan, khiến cho tác phẩm trở nên mơ hồ, lung linh, đa nghĩa,... Những cách tân nghệ thuật này một mặt thể hiện cảm quan thẩm mĩ mới của thời hiện đại, trong đó đổi mới, sáng tạo, phá cách được coi là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của cái đẹp; mặt khác, tạo nên sự phong phú và sức hấp dẫn đặc biệt của văn học hiện đại.
2.2. Xác định đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Xác định đối tượng nghiên cứu
Cách tân nghệ thuật trong văn chương Hê-minh-uê.
Xác định phạm vi nghiên cứu
Một số phương diện cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết "Ông già và biển cả" của Hê-minh-uê.
Xác định mục đích nghiên cứu
Những cách tân nghệ thuật trên các phương diện thể loại, ngôn từ và thủ pháp trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả" đã góp phần khẳng định phong cách độc đáo và xác lập vị trí quan trọng của Hê-minh-uê trong văn học hiện đại thế giới.
- Xác định đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu có thể là cách tân nghệ thuật trên các phương diện khác nhau của văn học hiện đại như: thể loại, ngôn từ, các thủ pháp nghệ thuật.
- Xác định phạm vì nghiên cứu: Với báo cáo văn học hiện đại, có thể chọn một tác giả, tác phẩm phẩm theo trưởng phải hoặc thể loại văn học,..); một vài phương diện cách tân nghệ thuật.
Chẳng hạn, với bài viết tham khảo trên, người viết đã chọn tác giả là Hê-minh-uê, tiểu thuyết là Ông già và biển cả và một số phương diện cách tân nghệ thuật để nghiên cứu.
- Xác định mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu cách tân nghệ thuật trong văn học hiện đại có thể nhằm các mục đích khác nhau: khẳng định giá trị của những cách tân nghệ thuật trong tác phẩm, xác định vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp văn học của tác giả, làm rõ phong cách sáng tác của tác giả,...
Trang 25
2.3. Thu thập, phân tích và xử lí thông tin
Trong quá trình thu thập, phân tích và xử li thông tin đề viết bài nghiên cứu cách tân nghệ thuật trong văn học hiện đại, cần lưu ý một số điểm sau:
– Tuỳ vào thể loại được lựa chọn, có thể trình bày cách tần trên các phương diện khác nhau và triển khai thành các luận điểm theo cách của riêng mình. Chẳng hạn, nếu là thơ: Tác phẩm đã thể hiện sự phá cách trong việc sử dụng từ ngữ, văn, nhịp, đổi ra sao? Các hình ảnh trong bài thơ có gì khác biệt so với thơ ca truyền thống? Nhân vật trữ tình được đổi mới như thế nào? Nếu là kịch: Xung đột kịch có bị làm mờ nhạt hay bị xoá bỏ hay không? Tình huống trong vở kịch có gì mới so với kịch truyền thống? Tác phẩm đã xoá bỏ các công thức trong hành động và ngôn ngữ kịch ra sao? Nếu là truyện ngắn hay tiểu thuyết: Cốt truyện được đổi mới như thế nào? Tác giả xác lập điểm nhìn bên ngoài hay bên trong, cố định hay di động? Tác phẩm có tạo ra kiểu nhân vật mới nào hay không? Ngôn ngữ trong truyện có gì khác so với ngôn ngữ truyền thống?
– Qua việc tìm hiểu những cách tân nghệ thuật cụ thể trong tác phẩm, có thể tự đặt ra các câu hỏi mang tính khái quát như: Tác phẩm thể hiện cảm quan nghệ thuật mới về thế giới và con người như thế nào? Tác phẩm đã làm thay đổi sự hình dung vốn có về thể loại ra sao? Tác phẩm có khơi được dòng chảy nào mới cho văn học đương thời hay không? Sự “đối thoại" giữa tác phẩm với truyền thống văn học thể hiện ở những điểm nào? Tác phẩm cho người đọc
thấy cả tính và phong cách sáng tác của tác giả ra sao?
Chẳng hạn, để hiểu rõ về bước thu thập, phân tích và xử lí thông tin trong văn bản "Ông già và biển cả" – cốt truyện và điểm nhìn; hiện thực và biểu tượng, có thể trả lời các câu hỏi gợi ý trong bảng sau:
Phương diện cách tân nghệ thuật | Câu hỏi |
Cốt truyện | Tính chất "gần như không có cốt truyện", "huỷ diệt cốt truyện" của tác phẩm được liên hệ với những vấn đề văn học sử và nghiên cứu văn học nào? |
Điểm nhìn | Tại sao có thể coi điểm nhìn “được di động vào bên trong" là một cách tân nghệ thuật? |
Nhân vật | Luận điểm về cách tân trong “nghệ thuật hư cấu nhân vật" được làm sáng tỏ thông qua các luận cứ như thế nào? |
Trang 26
Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm | Lí giải nhận định "Những lời độc thoại nội tâm của ông già không hoàn toàn biểu hiện một trạng thái cô đơn, khép kín.". Nhận định này có mâu thuẫn với nhận định về "sự cô đơn của người anh hùng kiểu Hê-minh uê giữa cảnh đời xa lạ" được nêu ở phần trên của bài viết hay không? |
Không gian và thời gian nghệ thuật | Tại sao bài viết lại dùng cách nói "tại đây – bây giờ để miêu tả đặc điểm không gian và thời gian nghệ thuật của tác phẩm Ông già và biển cả? |
Biểu tượng | – Luận điểm cho rằng Xan-ti-a-gô như một biểu tượng được chứng minh bằng những luận cứ nào? – Tìm các câu trong bài viết khẳng định nhân vật Xan-ti-a-gô là một biểu tượng. Bạn có nhận xét gì về cách diễn đạt trong các câu này? |
Một số lưu ý khi nghiên cứu cách tản nghệ thuật trong văn học hiện đại:
– Một vấn đề cách tân nghệ thuật có thể được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau và theo đó, cũng có thể triển khai bằng nhiều cách.
– Nghiên cứu cách tân nghệ thuật tức là nghiên cứu sự đổi mới. Để trình bày sự đổi mới một cách thuyết phục, luôn cần có ý thức liên hệ và so sánh, dù trực tiếp hay gián tiếp. Có thể liên hệ cái mới mà mình đang bàn luận với cái cũ, cái trước đó hoặc liên hệ, so sánh tác phẩm đang phân tích với các tác phẩm khác của cùng tác giả hay của các tác giả khác.
– Trong báo cáo nghiên cứu về cách tân nghệ thuật, nên có các ý tưởng mang tính gợi mở. Không nhất thiết phải tìm ra câu trả lời cho tất cả các ý tưởng, có thể chỉ cần đưa ra ý tưởng để người đọc tiếp tục suy nghĩ.