Trang 62
Yêu cầu
• Hiểu được cách nghiên cứu tổng quan đặc điểm phong cách sáng tác của một trường phái văn học.
• Hiểu và vận dụng được cách nghiên cứu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học ở những tác phẩm cụ thể thuộc trường phái đó.
• Xây dựng được kế hoạch đọc, tìm hiểu những tài liệu cần thiết nhằm bổ sung kiến thức về phong cách sáng tác của các trường phái văn học có ảnh hưởng rộng rãi ở Việt Nam.
I. ĐỌC BÀI VIẾT THAM KHẢO
Đọc Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) và suy nghĩ về tiểu thuyết lãng mạn
Đỗ Đức Hiểu (1)
Giới thiệu khái quát về tác phẩm được chọn làm “mẫu" nghiên cứu.
1831 – 1981. Nhà thờ Đức Bà Pa-ri ra mắt nhân loại đã được một trăm năm mươi năm. Suốt một trăm năm mươi năm qua, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ lục địa này qua lục địa khác, cả loài người đón chào "toà nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca" này với niềm say mê lớn. Những hình tượng Ex-mê-ran-đa (Esméralda), Ca-di-mô-đô (Quasimodo), Pi-e Granh-goa (Pierre Gringoire), những tiếng chuông nhà thờ Đức Bà lảnh lót, cả một đô thành Pa-ri thời Trung cổ, sống dậy trong trái tim mọi người, quay cuồng hỗn loạn đầy màu sắc và âm thanh, đầy hương hoa, máu và nước mắt, – một thế giới khủng khiếp
_____________________________________________________________
(1) Đỗ Đức Hiểu (1904 - 2003) là nhà giáo, chuyên gia nghiên cứu về văn học phương Tây, nhà dịch thuật văn học: tác phẩm chính: Lịch sử văn học phương Tây (Chủ biên, 1953), Từ điển văn học (Chủ biên, 1983 – 1984), Lịch sử văn học Pháp (Chủ biên, 1990 – 1992), Đổi mới phê bình văn học (1991), Đổi mới đọc và bình văn (1999), Thi pháp hiện đại (2000),...
Trang 63
và nên thơ, trần tục và siêu phàm, cao thượng và hèn hạ; những ánh sáng rực rỡ bỗng nhiên loé lên trong bóng đêm mịt mù, u uất. Vích-to Huy-gô dựng lên ở thế kỉ XIX với thơ, kịch, tiểu thuyết của ông một thiên thần thoại diệu kì làm xao xuyến lòng người, nâng cao tầm vóc chúng ta, thức tỉnh những khát vọng cao quý trong trái tim mỗi người.
Nhà thờ Đức Bà Pa-ri dày trên sáu trăm trang, gồm mười một quyển, kể câu chuyện tình yêu đau khổ của Ca-di-mô-đô, “thằng gù nhà thờ Đức Bà" với Ex-mê-ran-da, “cô gái Bô-hê-miên (Bohmiens) Ai Cập" trong trắng tuyệt vời - ánh sáng chiếu rọi suốt tấn bi kịch hùng tráng, hương thơm tỏa ra từ mỗi chương bộ tiểu thuyết. Nhà thờ Đức Bà Pa-ri là một anh hùng ca ca ngợi tình yêu, trái tim con người, là niềm tin sắt đá vào sức vươn lên của nhân loại đến những đỉnh cao của lương tâm trong sáng, là bài thơ hùng tráng và trữ tình, là sự tổng hợp của thơ, kịch, tự sự, triết học, lịch sử,... một sự tổng hợp bao la khiến người đọc luôn luôn ngạc nhiên và mê say như sống trong một giấc mơ dài.
Nêu tính chất tiêu biểu của tác phẩm trong việc thể hiện những chủ đề lớn của trường phải văn học.
Vích-to Huy-gô làm sống dậy cái “đêm dài Trung cổ" khủng khiếp phương Tây, Pa-ri, đô thành của cung điện thần kì của đêm hội rước Giáo hoàng, cuồng đãng của những tay trộm cướp, những thầy tu phá giới, những phế binh, những hành khất què cụt, lở loét, vang động những tiếng gào thét, rền rĩ, những tiếng gầm gừ, với những căn nhà mốc meo, với triều đình kì quái của vương quốc tiếng lóng,.... Nhưng cái đô thành Pa-ri ung nhọt, điên loạn ấy cũng sống những giờ phút rạng rỡ, buổi sáng mỗi ngày lễ lớn khi mặt trời phát đi một tín hiệu thần kì, Pa-ri thức dậy với muôn ngàn tiếng chuông thoạt đầu thưa thớt, rồi ngày càng gióng giả và trở thành một dàn nhạc giao hưởng với những đàn bướm âm thanh sặc sỡ, làm rung rinh những chân trời xa tắp. Một buổi tối, giữa ánh lửa của một trăm bỏ đuốc chiếu rực đỏ hàng ngàn khuôn mặt, xuất hiện bóng dáng rực rỡ của Ex-mê-ran-đa, huyền ảo, ngây thơ, múa theo nhịp trống, làm say mê cả Pa-ri cuồng loạn và đau khổ. Có những khi Pari vang dội tiếng hò reo “Nô-en! Nô-en!" của dân chúng, mỗi khi chứng kiến cử chỉ hào hiệp của Ex-mê-ran-da hay Ca-di-mô-đô. Và, một đêm Pa-ri cùng khổ đã vùng dậy, tiến công dữ dội nhà thờ Đức Bà, làm náo động và rung chuyển một đô thành âm u. Vích-to Huy-gô đã lãng mạn hoá thời kì Trung cổ, huyền thoại hoá một Pa-ri lịch sử. Mỗi nhân vật của ông là một huyền thoại – hiểu một cách đơn giản ở đây như sự kết hợp giữa hiện thực và ước mơ, hiện tại và tương lai, biểu hiện hi vọng vào ngày mai tươi sáng của loài người.
Trang 64
Ex-mê-ran-đa là một nhân vật huyền thoại. Xuất hiện như một thiên thần trong một thế giới rách nát, một đêm rực lửa giữa tiếng hò reo của đám dân chúng, trong tiếng hát thiết tha, Ex-mê-ran-đa là hình ảnh tượng trung của tâm hồn thanh khiết, của lương tâm trong sáng, của hi vọng và tương lai, là "tia nắng giọt sương, tiếng chim ca". Cô có những hành động làm dân chúng xúc động: cứu sống Pi-e Granh-goa và cho Ca-di-mô-đô uống nước trên đài bêu tù. Cô là "thượng giới và phố phường". Bi kịch của cô gái vô thừa nhận, không có tổ quốc, không gia đình và bị tử hình đó, là sự lầm lẫn có tính lịch sử trong mối tình cô đặt vào trái tim tàn bạo của Phê-buýt đờ Sa-tô-pe (Phocbus de Châteaupers), một gã lưu manh đẹp trai, mặc nhung y và đeo gươm, một đại uý dẫn đội cung thủ đàn áp cuộc nổi dậy của dân chúng, một tay đàng điếm thô bạo và tục tằn [...], một kẻ dã man đã cùng có tình nhân mới xem treo cổ cô tình nhân cũ.
Làm sáng tỏ đặc trưng cửa phong cách trường phái ở nghệ thưật xây dụng nhân vật.
Là một nhân vật huyền thoại, Ca-di-mô-đô, người mang những tật nguyền kinh khủng nhiều khi lại chiếu sáng bộ tiểu thuyết âm u này bằng một lương tâm tỏa ánh hào quang làm phấn chấn lòng người và nhiều khi vươn lên những tầm cỡ phi thường, trở thành nhân vật anh hùng ca; nó là linh hồn của nhà thờ Đức Bà; nó có khả năng kì điệu làm cho những khối đá nhà thờ sống dậy, hô hấp chuyển động; nó say mê với mười lăm chị em lớn nhỏ, một bầy chim ríu rít, một đám con gái ồn ào. Lúc làm Giáo hoàng một ngày hội, khi bị treo trên bánh xe, nơi đài bêu tù, máu chảy ròng ròng vì những ngọn roi quất, Ca-di-mô-dô thực sự trở thành người anh hùng khi nó cứu được Ex-mê-ran-đa vào cư trú trong nhà thờ, hình bóng nó xuất hiện trên trời cao, tay nâng "chiến lọi phẩm", miệng hô "Tị nạn! Tị nạn!", trong khi ở bên dưới, đám dẫn chúng hò reo: "Nô-en! Nô-en!". Và để bảo vệ Ex-mê-ran-đa, một lần, một mình Ca-di-mô-đô chống lại cuộc tấn công vào nhà thờ của hàng nghìn người đầy vũ khí. Bỗng nhiên nó hóa thân thành một anh hùng chiến trận của trường ca I-li-át. Bên cạnh những trang anh hùng ca đó, là một bản tình ca vô cùng xúc động. Trái tim đá của Ca-di-mô-đô đã đập những nhịp đập của tình yêu; từ khi "giọt lệ nhỏ vì giọt nước", Ca-di-mô-đô yêu; và trong bộ tiểu thuyết, Ca-di-mô-đô là người duy nhất có tình yêu. Phro-lô (Frollo) chỉ là một quỷ dữ đam mê thân thể của Ex-mê-ran-đa, cái chết của nó là lời tuyên bố sự thất bại hoàn toàn và cay đắng của triết học kinh viện, của chủ nghĩa khổ hạnh. "Bài ca Ca-di-mô-đô" buồn thê thảm đôi khi vang lên buổi tối: "Đừng nhìn khuôn mặt/ Hỡi cô gái hãy nhìn trái tim". Trái tim Ca-di-mô-đô trong sạch, say mê, cao thượng.
Luôn quy chiếu về đặc trưng phong cách sáng tác của trưởng phái khi phân tích những nét đặc sắc trong tác phẩm.
Trang 65
Khi mất Ex-mê-ran-đa, nó khóc, nước mắt như suối, nó húc đầu vào vách đá. Và cái chết của Ca-di-mô-đô là sự chấm đứt cuộc đời đau khổ trong các truyện dân gian, là một huyền thoại để lại những âm vang không bao giờ đứt. Cuộc đời Pi-e Granh-goa là một huyền thoại lớn. Mấy lần suýt bị treo cổ, anh đều thoát chết một cách tình cờ, khiến anh và cùng kinh ngạc. Cuộc gặp gỡ giữa anh và Ex-mê-ran-đa là một chuyện hoang đường, hài hước; cũng rất hoang đường, hài hước cuộc hôn nhân theo tục đập vỡ vò cùng đêm tân hôn có một không hai của nhà thơ - triết gia khắc kỉ bất đắc đĩ. Điều đặc biệt của nhà thơ lãng mạn này, là anh tự sáng tạo cho mình một cuộc sống ở bên ngoài cuộc sống thực, ở bên trên cuộc đời tầm thường. Anh có tự do: "Thà rách rưới mà có triết học và tự do là hơn". Anh sống "xa lạ" với thế giới quanh mình, nhận thức rõ ràng chế độ xã hội anh đang sống là một chế độ "thu thuế và treo cổ". Anh coi khinh cuộc sống xa hoa, xã hội buôn bán. Anh nghe thấy tiếng ì ầm nổi giận của dân chúng dưới thời Lu-i (Louis) XI tàn nhẫn, thiếu nhân nghĩa. Và một lần tư tưởng bất bình của Granh-goa đã nhóm lên và thổi bùng ngọn lửa giận dữ của dân chúng, châm ngòi cho một cuộc nổi dậy, đốt cháy nhà thờ Đức Bà, kết thúc một cách hùng tráng bộ tiểu thuyết vĩ đại này. Hiện thực và hư ảo, hình tượng Pi-e Granh-goa là một hình tượng đẹp trong tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Pa-ri, Granh-goa là nghệ sĩ lí tưởng của các nhà văn lãng mạn thế kỉ XIX.
Đánh giá chiều sâu nguyên tắc sáng tác của trường phái được thể hiện qua một trường hợp sáng tác cụ thể.
Huyền thoại lãng mạn của Vích-to Huy-gô gây những xúc động lớn, bởi vì nó là hiện thực được bao quanh bằng những vầng hào quang hoang đường, đầy tính thơ ca. Hạt nhân của những hình tượng hư ảo, gần như huyền bí đó, là cái chân thực. Huyễn hoặc là cái áo khoác sặc sỡ bên ngoài; bên trong là cái tồn tại thực sự trong xã hội.
Đánh giá kết hợp tầm vóc của tác phẩm được phân tích và đóng góp nghệ thuật của trường phái văn học mà tác phẩm thuộc vào.
Thành tựu văn học lãng mạn Huy-gô là đã xây dựng những huyền thoại để nói cái chân thực của thời đại ông. Những hiện thực này được phóng đại, đưa lên những kích thước to lớn, gần như hoang đường, có tính dân gian sâu sắc. Ở thế kỉ XX chúng ta, văn học lãng mạn cổ điển được tiếp thu và phát triển theo nhiều tuyến, với nhiều sắc thái, loại hình (Rô-manh Rô-lăng - Romain Rolland, loại hình Cáp-ca, loại hình Mỹ La-tinh,...), có khi đạt những thành tựu lớn, có khi gây những ấn tượng thần bí. Và khái niệm huyền thoại hiện đang gây biết bao cuộc tranh luận sôi nổi. Chủ nghĩa lăng mạn cổ điển - mà Vích-to Huy-gô là linh hồn và máu thịt - là một bước phát triển cục kỉ quan trọng của văn học loài người, bên cạnh chủ nghĩa hiện thực cổ điển.
(Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội - NXB Mới Cà Mau, 1994, tr. 299- 305)
Trang 66
Trả lời câu hỏi
1. Định hướng viết của tác giả Đỗ Đức Hiểu ở văn bản này là gì?
2. Khi phân tích tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Pa-ri, tác giả đã tuân thủ định hướng viết thể hiện ở nhan đề bài viết như thế nào?
3. Trong bài viết có những câu, những nhận định nào có thế giúp người đọc hiểu rộng ra về phong cách sáng tác của trường phải lãng mạn trong tiểu thuyết?
II. XÁC ĐỊNH CÁC THAO TÁC CẦN THỰC HIỆN KHI NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH SÁNG TÁC CỦA MỘT TRƯỜNG PHÁI VĂN HỌC
1. Nghiên cứu tổng quan về phong cách sáng tác của một trường phái văn học
Phong cách sáng tác của một trường phái văn học là đối tượng nghiên cứu quan trọng của các ngành lịch sử văn học, lí luận văn học. Để có thể đưa ra được những nhận định khái quát về đối tượng này, các nhà nghiên cứu, lí luận đã phải thực hiện một số thao tác khoa học cơ bán theo trinh tự sau:
- Tập hợp (theo mức độ bao quát nhất có thể) những tác phẩm thường được cho là thuộc về một trường phái văn học nào đó (cổ điển, hiện thực, lăng mạn, tượng trưng, siêu thực,...).
- Xác định những nét chung của các sáng tác đã được tập hợp trên các mặt: điểm tựa về triết học, tư tưởng; quan điểm mĩ học; đề tài, chủ đề quen thuộc; cách tạo dựng thế giới hình tượng; quan điểm sử dụng thể loại, ngôn ngữ; mối quan hệ với văn học truyền thống và văn học đương thời (thuộc các khuynh hướng, trường phái, chủ nghĩa,.. khác);...
- Tìm hiểu hệ thống nguyên nhân đưa đến những điểm chung trong các tác phẩm thuộc nhóm đã tập hợp: bối cảnh chính trị - xã hội; nhu cầu tư tưởng - thẩm mĩ của thời đại; tầm ảnh hưởng của một nhà văn hoặc một sáng tác kiệt xuất; sự liên kết của các nhà văn về mặt tổ chức; sự tác động của một lĩnh vực nghệ thuật khác; sự khám phá mới về tiềm năng thẩm mĩ của một hiện tượng văn học trong quá khứ hoặc hiện tượng văn học của cộng đồng dân tộc khác;...
- So sánh để tìm ra nét khu biệt giữa nhóm tác phẩm này với nhóm tác phẩm vốn được cho là thuộc về một trường phái văn học khác, chẳng hạn so sánh tác phẩm của trường phái lãng mạn với tác phẩm của trường phái hiện thực, so sánh tác phẩm của trường phái lãng mạn với tác phẩm của trường phái tượng trưng,...
Trang 67
- Rút ra nhận định khái quát về phong cách sáng tác của trường phái (có ghi chú riêng về những trường hợp dị biệt); đánh giá vai trò, ý nghĩa của phong cách sáng tác đó đối với sự phát triển của văn học (theo những phạm vi khác nhau: trong nội bộ nền văn học dân tộc, trong nến văn học khu vực, trong nền văn học thế giới,...).
Khi tìm hiểu phong cách sáng tác của một trường phái văn học, các nhà nghiên cứu, lí luận thường phải vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, phối hợp nhiều góc nhìn và khai thác tư liệu do một số ngành khoa học khác cung cấp: lịch sử, văn hóa học, dân tộc học, ngôn ngữ học,...
Bên cạnh đó, việc chú ý phân tích các tuyên ngôn hoặc sáng tác mang tính chất tuyên ngôn của trường phái luôn có ý nghĩa định hướng quan trọng. Ví dụ, khi nghiên cứu về trường phái cổ điển (chủ nghĩa cổ diễn), không thể bỏ qua việc tìm hiểu tác phẩm Nghệ thuật thơ (1674) của Boa-lô; khi nghiên cứu về trường phái lãng mạn (chủ nghĩa lãng mạn), bài tựa của Vích-to Huy-gô viết cho vở kịch Crôm-oen (Cromwell, 1827) của chính ông là văn bản cần được khảo sát, vì qua đây người ta nhận ra cương lĩnh sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn; khi nghiên cứu về trường phái siêu thực (chủ nghĩa siêu thực) trong văn học, hai văn bản đầu tiên phải được khảo sát kĩ là Tuyên ngôn siêu thực (1924) và Tuyên ngôn siêu thực thứ hai (1929) do An-đrê Brơ-tông (André Breton) chấp bút;...
LUYỆN TẬP, VẬN DỤNG
1. Khi nghiên cứu tổng quan về phong cách sáng tác của một trường phái văn học, các nhà nghiên cứu, lí luận thường phải thực hiện những thao tác khoa học cơ bản nào?
2. Trong Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội, 2004 có các mục từ: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lăng mạn, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tượng trưng,... Tìm sách, chọn đọc một trong các mục từ nêu trên và thực hiện theo nhóm các yêu cầu sau:
a. Liệt kê tên các tác giả, tác phẩm xuất hiện trong mục từ và cho biết ý nghĩa của việc nhắc đến tên các tác giả, tác phẩm ấy.
b. Lược ghi các ý mà bạn cho rằng tác giả từ điển nói về phong cách sáng tác của trường phái (chủ nghĩa) đang được đề cập.
c. Nêu nhan đề các tác phẩm (hoặc trích đoạn tác phẩm) đã được học trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông thuộc trường phái văn học gần với mục từ bạn đang tìm hiểu (nếu có).
3. Sưu tầm một số câu, đoạn thơ, đoạn văn, nhận dịnh,... mang tính chất tuyên ngôn sáng tác của các nhà văn hiện thực hoặc lãng mạn trong văn học Việt Nam (như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. Thế Lữ, Xuân Diệu,...).
Trang 68
2. Nghiên cứu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học trong những tác phẩm cụ thể
Phong cách sáng tác của các trường phái từng xuất hiện trong lịch sử văn học đã dược các nhà nghiên cứu, lí luận tổng kết và toàn bộ hiểu biết về chúng cũng đã được đưa vào những tài liệu mang tính chất phổ cập kiến thức như từ điển, giáo trình chuyên môn. Vì vậy, đối với người học chuyên đề, việc nỗ lực khái quát đặc điểm phong cách sáng tác của một trường phái nào đó là không cần thiết, trừ trường hợp cần nhắc lại kiến thức đã biết. Xuất phát từ thực tế này, nhiệm vụ trọng tâm cần được xác định ở đây là tìm hiếu cách nghiên cứu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học trong những tác phẩm cụ thể (tác phẩm đơn lẻ hoặc chùm tác phẩm của một tác giả hay nhiều tác giả).
Các thao tác cần thực hiện:
- Chọn các tác phẩm hoặc chùm tác phẩm phù hợp để làm "mẫu" phân tích, nhằm làm sáng tỏ phong cách sáng tác của một trường phái văn học nào đó. Vi dụ: Khi dự định tìm hiểu về phong cách sáng tác hiện thực chủ nghĩa (giới hạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945), cần tìm đến tác phẩm hoặc chùm tác phẩm của các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nam Cao,...
- Tìm, liệt kê các cứ liệu trong "mẫu" khảo sát có thể chứng minh được sự chi phối của phong cách sáng tác chung đối với hoạt động sáng tạo tác phẩm cụ thể của nhà văn, nhà thơ. Với tác phẩm có quy mô lớn hoặc chùm tác phẩm, nên có các phiếu ghi dẫn chứng và sắp xếp chúng theo từng nhóm, loại: tư tưởng thầm mĩ; đề tài, chủ đề; thế giới hình tượng; cấu trúc tác phẩm; thể loại, ngôn ngữ,... Ví dụ: Khi đề cập việc khẳng định cái tôi cá nhân trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng - một biểu hiện của việc vận dụng phong cách sáng tác lãng mạn chủ nghĩa - có thể tập hợp những câu thơ mang màu sác tự biểu hiện của nhân vật trữ tình vào một nhóm, như: "Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất,/ Không có chi bè bạn nói cùng ta." (Hi Mã Lạp Sơn); "Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mắt/ Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi." (Vội vàng); "Đây là quán tha hồ muôn khách đến;/ Đây là bình thu hợp trí muôn hương;/ Đây là vườn chim nhả hạt mưới phương,/ Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc..." (Cảm xúc);...
- So sánh, xác định điểm tương đồng giữa tác phẩm, chùm tác phẩm được chọn làm "mẫu" với các tác phẩm, chùm tác phẩm khác của cùng trường phái để thấy được tính chất cộng đồng về mặt thẩm mĩ ở toàn bộ tác phẩm này - một minh chứng cho sự tồn tại của phong cách sáng tác chung.
- So sánh, xác định điểm khác biệt giữa tác phẩm, chùm tác phẩm được chọn làm "mẫu" với các tác phẩm, chùm tác phẩm của trường phái khác để khẳng định nét riêng trong phong cách sáng tác của trưởng phái văn học đang được nghiên cứu.
- Xác định và đánh giá giá trị độc đáo của "mẫu" phân tích - điều thể hiện được cá tính sáng tạo riêng của nhà văn, nhà thơ khi sáng tác theo phong cách của một trường phái nhất định.
Trang 69
Lưu ý:
- Phong cách sáng tác của một trường phái văn học vốn được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng tùy vào điều kiện và yêu cầu nghiên cứu, có thể chỉ tập trung tìm hiểu một
phương diện nào đó. Ví dụ: Khi tìm hiểu dấu ấn của phong cách sáng tác hiện thực chủ nghĩa
trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, có thể chỉ tập trung nghiên cứu cảm hứng vạch trần bộ mặt thật của xã hội "chó đểu" trong các tác phẩm mà không đề cập những biểu hiện của
phong cách sáng tác này trên một số phương diện khác, mặc dù giữa các phương diện đó có mối liên hệ chặt chẽ.
- Tuy phải hướng đến mục tiêu làm nổi bật phong cách sáng tác của trường phái văn học, khi nghiên cứu một "mẫu" cụ thể, cần tránh việc xem "mẫu" đó chỉ có giá trị minh họa cho sự tồn tại của phong cách chung. Việc khẳng định nét độc đáo của đối tượng phân tích cụ thể là hết sức cần thiết. Chính điều đó giúp ta nhận thấy rõ hơn tương quan giữa cái riêng và cái chung: những nguyên tắc sáng tác chung không "bóp chết" sự sáng tạo của từng nhà văn, nhà thơ mà ngược lại, có thể tạo cơ hội cho họ tìm đến những cách thể hiện, biểu đạt mới lạ, từ đó, làm phong phú thêm phong cách sáng tác chung.
LUYỆN TẬP, VẬN DỤNG
1. Khi tìm hiểu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học trong những tác phẩm cụ thể, người nghiên cứu phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản nào?
2. Phân tích sự khác nhau về mục tiêu giữa các đề tài nghiên cứu trong từng cặp sau:
a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết "Những người khốn khổ" của Vích-to Huy-gô và Tìm hiểu nguyên tắc xây dựng hình tượng nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn qua tiểu thuyết "Những người khổn khổ" (Vích-to Huy-gô).
b. Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân và Tính chất lãng mạn của tình huống truyện trong tác phẩm "Chữ người tử tù" (Nguyễn Tuân).
c. Những giá trị nổi bật của truyện ngắn "Chí Phèo" (Nam Cao) và Phong cách hiện thực trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao.
d. Hình tượng cái tôi trong thơ Xuôn Diệu thời trước Cách mạng và Cái tôi lãng mạn chủ nghĩa trong thơ Xuân Diệu thời trước Cách mạng.
e. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" (Thanh Thảo) và Dấu ấn tượng trưng, siêu thực trong bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" (Thanh Thảo).
3. Chọn một cặp đề tài nghiên cứu được nêu ở bài tập 2 và xác định hướng triển khai các đề tài đó theo bảng được gợi ý sau:
STT | Đề tài | Mục tiêu | Luận điểm | Dẫn chứng |
1 | ||||
2 |