Trang 29
II. NHẬT BẢN TỪ NĂM 1973 ĐẾN NAY
1. Thời kì khủng hoảng và điều chỉnh (1973 – 2000)
a) Sự phát triển không ổn định về kinh tế
• Tình hình
Trong nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX, tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ (1973) khiến nền kinh tế Nhật Bản bị ảnh hưởng nặng nề. Năm 1974, GDP sụt giảm nghiêm trọng.
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt chính sách, trong đó tập trung vào nhóm chính sách về năng lượng và kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tài chính.
EM CÓ BIẾT? Năm 1974, lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, GDP của Nhật Bản suy giảm xuống mức âm (-1,23%). Trong những năm 1973 – 1975, ước tính khoảng 30% thiết bị nhà máy ngừng hoạt động. Các ngành công nghiệp có thể mạnh sử dụng nhiều năng lượng của Nhật Bản như công nghiệp luyện kim, hoá dầu, đóng tàu, công nghiệp dệt,... đều làm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài. |
Kết quả của việc thực hiện những chính sách trên là Nhật Bản đã khắc phục được những hậu quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng, duy trì được vị trí nền kinh tế lớn thứ hai trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển ở giai đoạn sau.
Từ chỗ là quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào năng lượng dầu mỏ nhập khẩu với tỉ lệ lên đến 99,7% vào năm 1973, đến năm 1984 tỉ lệ này giảm xuống còn 34,2%.
Bước sang những năm 80 của thế kỉ XX, Nhật Bản tiếp tục quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chú trọng việc mở cửa thị trường trong nước, giảm bớt phụ thuộc vào xuất khẩu.
Năm 1987, lần đầu tiên tổng sản phẩm bình quân đầu người của Nhật Bản đã vượt Mỹ. Nhật Bản trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. Từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản trở thành siêu cường tài chính số một thế giới.
Từ cuối năm 1986 đến đầu năm 1991, Nhật Bản bước vào thời kì “kinh tế bong bóng” với các đặc điểm: đồng yên Nhật tăng giá nhanh chóng, GDP tăng trưởng với tốc độ cao, giá trị tài sản cao, sức tiêu dùng mạnh và tỉ lệ thất nghiệp thấp. Tuy nhiên, việc đồng yên tăng giá đã gây khó khăn cho nền kinh tế vốn chủ yếu dựa trên xuất khẩu của Nhật Bản. Để giải quyết tình trạng này, Chính phủ thực hiện nhiều biện pháp kiểm soát chặt chẽ về tài chính, khiến nền kinh tế Nhật Bản bị “sốc” mạnh và bắt đầu đi xuống. Thời kì “kinh tế bong bóng” chấm dứt.
Trong những năm 90, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng trì trệ, suy giảm kéo dài.
Trang 30
Tăng trưởng GDP trong những năm 1991 – 1993 tụt xuống mức 2% và tiếp tục giảm xuống mức thấp hơn trong những năm tiếp theo, thậm chí có năm còn tăng trưởng âm. Hàng loạt ngân hàng, công ty,... đóng cửa. Tỉ lệ thất nghiệp trung bình là 5%.
Mặc dù vậy, Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới.
Tỉ trọng của Nhật Bản trong nền sản xuất của thế giới là 1/10, GDP của Nhật Bản năm 2000 là 4 746 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người là khoảng 37 000 USD (2020).
• Nguyên nhân sự phát triển không ổn định của nền kinh tế Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 2000
Thứ nhất, các chính sách tài chính của Chính phủ Nhật Bản không được tiến hành kịp thời và chưa thực sự hiệu quả để đưa nền kinh tế ra khỏi suy thoái.
Thứ hai, lợi nhuận từ xuất khẩu không được sử dụng hiệu quả cho thị trường trong nước. Sức sống của nền kinh tế suy giảm, không đủ vốn đầu tư cho những công ty mới.
Thứ ba, tình trạng già hoá dân số gia tăng, trước hết là dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản. Sự suy giảm lực lượng lao động dẫn tới giảm lợi nhuận và tác động đến chiến lược kinh doanh của các nhà đầu tư.
Câu hỏi: Hãy giải thích nguyên nhân dẫn đến sự phát triển không ổn định về kinh tế của Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 2000.
b) Tình hình chính trị, xã hội
• Về chính trị
Trong phần lớn thời gian của giai đoạn 1973 – 2000, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) tiếp tục khẳng định vai trò của đảng cầm quyền (1973 – 1993, 1996 – 1998). Chính phủ do LDP cầm quyền đề ra nhiều chiến lược nhằm đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển và thu được nhiều thành tựu.
Trong những năm 1973 – 2000, chính sách đối ngoại của Nhật Bản có những điểm nổi bật là:
Thứ nhất, liên minh chặt chẽ với Mỹ là nền tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Hai nước Mỹ và Nhật Bản ra tuyên bố khẳng định việc kéo dài vĩnh viễn Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật Bản vào tháng 4 – 1996. Mặt khác, Nhật Bản vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng hoạt động đối ngoại với các đối tác khác trên phạm vi toàn cầu.
EM CÓ BIẾT? Hình 6. Thủ tướng Phu-cư-đa Ta-kê-ô (1905 - 1995) |
Trang 31
Thứ hai, Nhật Bản thực hiện chính sách đối ngoại mới để vừa duy trì hoà bình và an ninh, phát triển đất nước, vừa thể hiện rõ hơn vai trò tích cực, mang tính xây dựng đối với nền hoà bình và thịnh vượng trên thế giới.
Nhật Bản chú trọng việc đóng góp tài chính và nguồn nhân lực cho Liên hợp quốc. Từ năm 1998, Nhật Bản là nước đóng góp ngân sách lớn thứ hai (sau Mỹ) cho tổ chức này.
Đối với khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản đưa ra Học thuyết Phu-cư-đa, tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội với các nước trong khu vực và tổ chức ASEAN. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN tăng rất nhanh, năm 1990 tăng gần 8 lần và năm 1995 tăng 11 lần so với năm 1989.
EM CÓ BIẾT? Ngày 21 – 9 – 1973, Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đặc biệt, từ khi hai nước nâng cấp quan hệ lên “Đối tác hợp tác chiến lược sâu rộng vì hoà bình và thịnh vượng ở châu Á” (2014), quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, toàn diện, thực chất trên tất cả các lĩnh vực. Nhật Bản đã trở thành đối tác tin cậy và rất quan trọng của Việt Nam. |
• Về xã hội
Sự phát triển không ổn định của nền kinh tế đã tác động sâu sắc đến xã hội Nhật Bản. Trong những năm 80, tầng lớp trung lưu mới xuất hiện và ngày càng đông đảo trong các thành phố và trung tâm công nghiệp, tuy nhiên, số lượng người bị phá sản, mất việc làm, phải sống bằng trợ cấp xã hội ngày càng nhiều. Theo thống kê, số lượng người nghèo trong xã hội Nhật Bản tăng gấp hơn 2 lần trong những năm 1993 – 2000. Phong trào nữ quyền ở Nhật Bản phát triển mạnh mẽ với sự kiện bà Đô-i Ta-ka-kô – người phụ nữ đầu tiên được bầu giữ vị trí đứng đầu Đảng Dân chủ xã hội (1986 – 1991) và những đại diện đầu tiên của phụ nữ được tham gia vào Chính phủ Nhật Bản.
Hình 7. Bà Đô-i Ta-ka-kô
Câu hỏi: Nêu những nét chính về tình hình chính trị, xã hội Nhật Bản trong những năm 1973 – 2000.
2. Nhật Bản những năm đầu thế kỉ XXI
a) Cải cách và quá trình phục hồi kinh tế
Trong những năm đầu thế kỉ XXI, nền kinh tế Nhật Bản từng bước được phục hồi và chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Đó là kết quả của việc thực hiện hiệu quả nhiều cải cách kinh tế của Chính phủ.
Năm 2001, GDP của Nhật Bản là gần 4,4 nghìn tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người là 34 000 USD; đến năm 2008, GDP tăng lên 5,1 nghìn tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 39 000 USD.
EM CÓ BIẾT? Cô-i-dư-mi Giản-i-chi-nô là Thủ tướng của Nhật Bản từ năm 2001 đến năm 2006. Ông tiến hành những cải cách kinh tế nhằm khắc phục tình trạng nợ xấu, giảm bớt số nợ khổng lồ của Nhà nước và tư nhân hoá ngành Bưu chính Nhật Bản. |
Trang 32
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu (2008 – 2009) đã đẩy nền kinh tế mới hồi phục của Nhật Bản vào một cơn bão suy thoái mới. Là nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, sản xuất của Nhật Bản giảm sút nhanh chóng. Nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật Bản như: hàng điện tử, ô tô,... giảm mạnh trên toàn cầu.
Để đối phó với khủng hoảng, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp mạnh, cứu trợ các công ty gặp khó khăn trong sản suất và kinh doanh,... Cùng với tác động từ sự phục hồi của các nền kinh tế lớn trên thế giới, từ năm 2009, xuất khẩu của Nhật Bản tăng trở lại. Từ tháng 9 – 2009, sản xuất công nghiệp bắt đầu tăng, tỉ lệ thất nghiệp giảm,...
Từ năm 2010, Chính phủ Nhật Bản dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng A-bê Sin-dô (cầm quyển 4 nhiệm kì liên tiếp từ năm 2012 đến năm 2020) đã hoàn thành các chính sách cải cách, trong đó nổi bật là chính sách cải cách kinh tế A-bê-nô-míc. Việc thực hiện cải cách đã giúp nền kinh tế Nhật Bản từng bước lấy lại đà tăng trưởng và đạt được những kết quả tích cực.
Mặc dù vị thế nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã bị Trung Quốc vượt qua (2010), Nhật Bản vẫn là một trong những nước phát triển, có thu nhập bình quân đầu người cao trên thế giới.
Câu hỏi: Trình bày quá trình cải cách và phục hồi kinh tế của Nhật Bản trong những năm đầu thế kỉ XXI.
b) Những chuyển biến về chính trị, xã hội
• Về chính trị
Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, tình hình chính trị của Nhật Bản không ổn định với sự thay đổi Nội các và thủ tướng liên tục.
Ngoại trừ khoảng thời gian nắm quyền của Thủ tướng Cô-i-dư-mi và A-bê Sin-dô, ước tính trung bình mỗi Thủ tướng Nhật Bản chỉ tại nhiệm được khoảng hơn 1 năm.
EM CÓ BIẾT? Cương lĩnh của DPJ nhằm vào các chính sách thiết thực phục vụ người dân hơn là lợi ích của các doanh nghiệp. |
Đảng Dân chủ Tự do sau thời gian cầm quyền hơn nửa thế kỉ đến năm 2009 đã chuyển giao chính quyển cho Đảng Dân chủ đối lập (DP)), đứng đầu là Thủ tướng, Chủ tịch Đảng Ha-tô-y-a-ma Y-u-ki-ô. DPJ cầm quyền trong 3 năm (2009 – 2012) cho đến khi LDP giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Hạ viện Nhật Bản vào giữa tháng 12 – 2012.
Trang 33
Nhật Bản luôn coi quan hệ đồng minh với Mỹ là mối quan hệ quan trọng và hợp tác chặt chẽ để giải quyết nhiều vấn đề trong quan hệ quốc tế. Quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực được Nhật Bản coi trọng, mà cốt lõi là chiến lược ngoại giao kinh tế.
Chiến lược ngoại giao kinh tế hướng đến ba mục tiêu cụ thể: vực dậy nền kinh tế Nhật Bản, khắc phục tình trạng thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo Nhật Bản không bị gạt ra bên lề cuộc hội nhập kinh tế khu vực. Trên thực tế, chiến lược này đã được triển khai toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó Nhật Bản đặc biệt coi trọng vai trò trung tâm của ASEAN.
TƯ LIỆU 4. Ngày 14 – 12 – 2013, Hội nghị cấp cao kỉ niệm 40 năm quan hệ Đối thoại ASEAN – Nhật Bản (1973 – 2013) tổ chức tại Tô-ki-ô đã ra Tuyên bố chung “Chung tay đổi mặt thách thức khu vực và toàn cầu”. Tuyên bố có đoạn: “Chúng tôi nhận thấy sự cần thiết phải tăng cường hơn nữa các khuôn khổ hợp tác vì hoà bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và nhấn mạnh tầm quan trọng của vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình..”. (Theo: Báo điện tử Chính phủ) |
Uy tín và vị thế quốc tế của Nhật Bản từng bước được nâng cao. Nhật Bản là một trong những quốc gia có số lần được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiều nhất.
Hình 8. Lễ đặt cờ các nước Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tại trụ sở Liên hợp quốc ngày 3 – 1 – 2023 (trong đó có Nhật Bản)
• Về xã hội
Nhật Bản là nước có chỉ số phát triển con người (HDI) đứng thứ bảy thế giới, tuổi thọ trung bình thuộc nhóm cao nhất thế giới (85 tuổi), tỉ lệ lao động thất nghiệp giảm qua các năm.
Trang 34
TƯ LIỆU 5. Tỉ lệ lao động thất nghiệp của Nhật Bản trong giai đoạn 2012 – 2018: (Đơn vị: %)
(Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)) |
Tuy nhiên, dân số già hoá và tỉ lệ sinh thấp là thách thức lớn đối với Nhật Bản. Theo dự báo, đến năm 2053, tổng dân số Nhật Bản sẽ giảm xuống dưới 100 triệu người. Đây là mối quan tâm hàng đầu trong xã hội Nhật Bản hiện nay.
Những vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội đặt ra trong những năm đầu thế kỉ XX đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản phải có những quyết sách mang tính bước ngoặt để giải quyết.
Câu hỏi: Khai thác thông tin và các tư liệu 4, 5 trong mục, hãy phân tích những chuyển biến về chính trị, xã hội của Nhật Bản những năm đầu thế kỉ XXI (cả mặt tích cực và mặt tiêu cực).