III. MỘT SỐ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Các tôn giáo cùng tồn tại và bình đẳng với nhau, gồm những tôn giáo có nguồn gốc du nhập từ bên ngoài (Phật giáo, Đạo giáo, Công giáo, Hồi giáo,...) và cả những tôn giáo có nguồn gốc bản địa (đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo,...).
1. Nho giáo
Nho giáo là một hệ thống triết học chính trị – xã hội, giáo dục, đạo đức do Khổng Tử sáng lập vào khoảng thế kỉ VI TCN.
Trang 14
EM CÓ BIẾT? Nho gia là một học phải được hình thành trên cơ sở tư tưởng của Khổng Tử và những người kế thừa, phát triển tư tưởng của ông. Nho học chỉ những nhà tư tưởng theo học phải Nho gia hoặc chỉ một môn khoa học tiến hành nghiên cứu tư tưởng Nho gia của các trí thức trong xã hội. |
Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc (khoảng thế kỉ đầu Công nguyên) và đã có quá trình được tiếp nhận, phát triển trải qua nhiều thời kì thăng trầm của lịch sử. Có thời kì, Nho giáo được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội, đạo đức và văn hoá, giáo dục ở các triều đại từ Lý, Trần đến Nguyễn.
Trong suốt thời Bắc thuộc, Nho giáo từng bước được truyền bá vào Giao Chỉ cùng với Phật giáo và Đạo giáo. Đến thời Lý, triều đình đã cho xây dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử. Thời Trần, Nho học phát triển khá mạnh, Quốc Tử Giám được mở rộng,...
Hình 13. Văn Miếu ở Hà Nội được thành lập từ thời vua Lý Thánh Tông (1070)
Thời Lê sơ, Nho giáo được độc tôn và ở một mức độ nhất định đã mang màu sắc tôn giáo. Hệ thống giáo dục Nho học được mở rộng với sự thành lập các trường tư. Triều đình đẩy mạnh việc phổ biến Nho giáo xuống tận làng xã.
Đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn xây dựng Văn Miếu ở kinh đô Phú Xuân. Đồng thời, nhà Nguyễn cũng phát triển giáo dục Nho học mang tính hệ thống.
Từ đầu thế kỉ XX, Nho giáo suy tàn cùng với sự chấm dứt của nền giáo dục, khoa cử thời quân chủ. Xu hướng phê phán những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu của Nho giáo diễn ra ngày càng mạnh, dù ảnh hưởng của nó trong xã hội vẫn khá lớn.
Hiện nay, những biểu hiện về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam còn khá rõ:
Hoạt động thờ Khổng Tử và các bậc tiên Nho thể hiện truyền thống hiếu học của nhân dân vẫn được duy trì ở nhiều văn miếu, văn từ, văn chỉ.
Trang 15
Ngoài Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử và các bậc tiền Nho, tiêu biểu là Văn Miếu ở Hà Nội, Văn Miếu ở Huế, Văn Miếu Xích Đằng ở Hưng Yên, Văn Miếu Mao Điền ở Hải Dương, Văn Miếu Trấn Biên ở Đồng Nai, trên nhiều địa phương hiện nay vẫn còn dấu tích của các văn từ, văn chỉ – nơi trước kia từng thờ Khổng Tử và các nhà khoa bảng đỗ đạt.
Hình 14. Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương)
Hình 15. Văn từ Thượng Phúc (Hà Nội)
Đạo lí của Nho giáo về hiếu, lễ, nghĩa, trung, tín,... hay quan niệm về “tam tòng, tứ đức” ít nhiều vẫn còn ảnh hưởng khá sâu sắc trong nhận thức và ứng xử của nhân dân, gắn với những ảnh hưởng khá tích cực như lối sống trật tự, khuôn phép, “trên kính dưới nhường”,...
Câu hỏi
1. Nho giáo sau khi được truyền bá vào Việt Nam đã được tiếp nhận, sáng tạo như thế nào?
2. Dựa vào thông tin trong bài học và trải nghiệm thực tiễn của em, hãy nếu những biểu hiện của Nho giáo trong đời sống văn hoá – xã hội Việt Nam hiện nay.
2. Phật giáo
Phật giáo ra đời khoảng thế kỉ VI TCN ở Ấn Độ, do Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong tiến trình lịch sử, Phật giáo đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong buổi đầu độc lập, tự chủ, Phật giáo đóng vai trò dẫn dắt, định hướng văn hoá của dân tộc. Các thiền sư đồng thời cũng là những nhà văn hoá, chính trị, ngoại giao xuất sắc có vai trò quan trọng trong công cuộc hộ quốc, an dân.
Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh. Các công trình chùa, tháp Phật giáo được xây dựng khắp nơi. Dòng Phật giáo Trúc Lâm mang tính bản địa của riêng Việt Nam
ra đời dưới thời Trần.
Từ thời Lê sơ, Phật giáo từ chỗ cực thịnh đã mất dần vị thế, sau này, có sự khởi sắc ở một số thời kì nhưng không còn giữ được vai trò như trước nữa.
Trang 16
Trong thời kì vận động giải phóng dân tộc và kháng chiến chống Pháp, nhiều cơ sở thờ tự của Phật giáo đã trở thành những căn cứ nuôi giấu cán bộ cách mạng, như: chùa Linh Quang, chùa Tự Khánh (ở Hà Nội),...; chùa Trại Sơn, chùa Vũ Lao (ở Hải Phòng),...; chùa Ninh Cường, chùa Cổ Lễ (ở Nam Định),...; chùa Hoa Sơn, chùa Bích Động (ở Ninh Bình),...
Trong thời kì chống Mỹ, cứu nước, nhiều nhà sư và Phật tử trực tiếp tham gia đấu tranh, kháng chiến. Ở miền Nam, phong trào đấu tranh quyết liệt của các tăng ni, Phật tử (điển hình như Hoà thượng Thích Quảng Đức, Ni cô Thích Nữ Diệu Quang,...) đã góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Hình 16. Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông – người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Hình 17. Toàn cảnh chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên Huế)
Hiện nay, Phật giáo vẫn có ảnh hưởng lớn trong đời sống văn hoá – xã hội với những biểu hiện:
Chùa là nơi thu hút đông đảo Phật tử và du khách đến tham quan, hành lễ vào các dịp tuần rằm, lễ, tết để cầu mong sự an nhiên, thanh tịnh.
Nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo đã trở thành chuẩn mực trong đời sống tình cảm, tín ngưỡng, phong tục tập quán của nhân dân như lối sống hướng thiện, tinh thần tương thân tương ái trong cộng đồng,...
Các hoạt động từ thiện, xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tổ chức thường xuyên như: tiến hành quyên góp, cứu trợ đồng bào khi bị thiên tai; xây dựng các trường lớp, nhà dưỡng lão, cơ sở nuôi trẻ mồ côi,....
Hình 18. Khoá tu mùa hè tại chùa Đình Quán (Hà Nội)
Trang 17
Các hoạt động này đã góp phần vào việc giáo dục cộng đồng, xoá đói giảm nghèo, giảm bớt gánh nặng cho xã hội.
Câu hỏi
1. Qua hoạt động tham quan, trải nghiệm ở một ngôi chùa cụ thể, kết hợp với khai thác thông tin trong mục, hãy chỉ ra một số biểu hiện của Phật giáo trong đời sống văn hoá – xã hội của người Việt Nam hiện nay.
2. Vì sao nói: Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành với lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?
3. Đạo giáo
Đạo giáo (còn gọi là Lão giáo, đạo Lão,...) được hình thành vào khoảng cuối thế kỉ II, trong phong trào nông dân khởi nghĩa ở vùng Nam Trung Quốc, trên cơ sở nền tảng của Đạo gia – một học phái do Lão Tử và Trang Tử khởi xướng.
Đạo giáo được truyền bá vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ II. Khi vào Việt Nam, Đạo giáo tìm thấy rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng của người Việt nên dễ dàng được tiếp nhận.
Dưới Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian. Đến thời quân chủ, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đều coi trọng các đạo sĩ. Bộ máy quan lại trong Triều đình thời Tiền Lê còn có chức quan Sùng Chân uy nghi phụ trách Đạo giáo. Thời Lý – Trần, Đạo giáo là một trong “Tam giáo”, song hành cùng với Phật giáo và Nho giáo (còn gọi là hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”). Từ thời Lê trung hưng, Đạo giáo bắt đầu suy thoái, những đạo quán dần trở thành chùa, bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tượng Phật. Mặc dù vậy, vào nửa cuối thế kỉ XVIII, một số công trình Đạo giáo vẫn được xây dựng quanh khu vực Hồ Tây.
Đầu thế kỉ XX, các đàn cầu Tiên (gọi là thiện đàn) còn được xây dựng ở nhiều nơi.
Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam vẫn có ảnh hưởng ít nhiều trong đời sống xã hội.
Hình 19. Chùa Mui (Thường Tín, Hà Nội) từng là đạo quán lớn với tên chữ là “Hưng Thánh quán”
Trang 18
Những biểu hiện của Đạo giáo trong đời sống – xã hội hiện nay như: Đạo giáo có sự giao thoa và ảnh hưởng tới tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng.
Đạo giáo được thể hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên qua một số nghi lễ thờ cúng, ma chay,... Tôn giáo này cũng có sự tương đồng với tín ngưỡng thờ Mẫu trong quan niệm về hệ thống thần tiên và hình tượng, sắc phục của các vị Mẫu. Trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng, ảnh hưởng của Đạo giáo thể hiện ở thời gian xuất hiện và không gian xuất hiện của các nhân vật trong thần tích.
Hiện nay, nhiều dấu tích của Đạo giáo gắn với các đạo quán vẫn tồn tại, phân bố ở Hà Nội, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, một số tỉnh vùng Nam Bộ. Bên cạnh đó, có nhiều đàn cầu Tiên gắn liền với các di tích như: đền Ngọc Sơn, đền Tản Viên (Hà Nội), đền Đào Xá (Hưng Yên),...
EM CÓ BIẾT? Nơi thờ tự chính của Đạo giáo là đạo quán. Sự tồn tại của các đạo quán trong lịch sử và hiện tại đã chứng tỏ sự phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam. Ở Hà Nội hiện vẫn còn “Thăng Long tứ quán” bao gồm: Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh; Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ; Để Thích quán, nay là chùa Vua. |
Trong thực tế đời sống, một số phong tục và hoạt động mang màu sắc của Đạo giáo vẫn tồn tại như: thuật phong thuỷ, một số phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, hình thức cúng bái,...
Hình 20. Trấn Vũ quán (Hà Nội)
Câu hỏi: Trình bày những biểu hiện của Đạo giáo trong đời sống văn hoá – xã hội qua các thời kì lịch sử.
Trang 19
4. Cơ đốc giáo
Cơ đốc giáo (còn gọi là Ki-tô giáo) do Giê-su sáng lập vào khoảng đầu Công nguyên, tại một vùng đất của người Do Thái. Trong quá trình phát triển, Cơ Đốc giáo phân chia thành các hệ phái khác nhau. Trong đó, Công giáo và Tin Lành là hai hệ phái phổ biến ở Việt Nam.
Công giáo được các giáo sĩ phương Tây truyền bá vào Việt Nam từ thế kỉ XVI. Đến thế kỉ XIX, quá trình truyền bá của Công giáo gặp khó khăn do chính sách cấm đạo của Triều Nguyễn.
Công giáo phát triển ở miền Bắc (từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1954) và có ảnh hưởng tương đối lớn ở miền Nam (từ năm 1954 đến năm 1975).
Từ năm 1975 đến nay, Công giáo Việt Nam tiếp tục được củng cố và phát triển.
Đạo Tin Lành được truyền vào Việt Nam khoảng thập kỉ đầu thế kỉ XX. Trước năm 1975, đạo Tin Lành phát triển chủ yếu ở khu vực phía Nam. Từ giữa những năm 1980 đến nay, đạo Tin Lành phát triển rộng khắp ở Việt Nam, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Tây Bắc.
Hình 21. Nhà thờ Lớn (Hà Nội)
Hình 22. Nhà thờ Đức Bà (Thành phố Hồ Chí Minh)
Trong đời sống văn hoá – xã hội, Công giáo có những biểu hiện như sau:
Hoạt động thờ Chúa, cầu nguyện, đọc Kinh thánh do cá nhân hoặc nhóm thực hiện. Hằng tuần, các tín đồ đến nhà thờ để cùng cầu nguyện, nghe giảng về Kinh thánh,...
Thực hành những điều luật của Kinh thánh hoặc lời răn dạy của Chúa trong đời sống, hướng đến việc kính Chúa, yêu thương con người như: hiếu thảo với cha mẹ, làm việc thiện, giúp đỡ lẫn nhau,...
Tổ chức các ngày lễ liên quan đến cộng đồng Công giáo, như: lễ Phục sinh, lễ Giáng sinh,...
Trang 20
Đạo Tin Lành luôn chú trọng đến việc truyền giáo, tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện, nhân đạo, như: cứu trợ cho đồng bào thuộc khu vực bị thiên tai, bão lũ; tổ chức các đoàn y tế để khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo,...
Câu hỏi
Trình bày những biểu hiện của Cơ đốc giáo trong đời sống văn hoá – xã hội của nhân dân Việt Nam.
5. Một số tôn giáo khác
Ngoài các tôn giáo lớn được du nhập từ bên ngoài, ở Việt Nam còn có một số tôn giáo bản địa khác được hình thành và công nhận như: đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo,...
• Đạo Cao Đài (tên gọi đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ)
Đạo Cao Đài ra đời năm 1926 tại ấp Long Trung, xã Long Thành, thị xã Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh do một số công chức, tư sản, địa chủ, trí thức sáng lập và phát triển chủ yếu ở Nam Bộ. Đạo Cao Đài hình thành trên cơ sở kết hợp tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ.
Hình 23. Toà thánh của Hội Cao Đài (Tây Ninh)
Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo Giáo hội Cao Đài tiến hành xây dựng Toà thánh Tây Ninh, từng bước hoàn chỉnh hệ thống bộ máy tổ chức từ trung ương đến cơ sở. Đạo Cao Đài có ảnh hưởng nhất định trong đời sống của một bộ phận cư dân, nhất là ở Nam Bộ. Biểu hiện:
- Thực hành lối sống đoàn kết, tích cực tham gia các hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tu luyện trong quá trình hành đạo theo “tam công”: lập công quả là hi sinh tư lợi để hành đạo vì xã hội, vì đạo; lập công trình là rèn luyện bản thân theo giới luật trở thành người hạnh đức; lập công phu là tu luyện tinh thần tiến hoá về đạo pháp.
EM CÓ BIẾT? - Trong những năm 1954 - 1975, khoảng 4000 liệt sĩ, 10 000 thương binh, 400 bà Mẹ Việt Nam Anh hùng và nhiều gia đình theo đạo Cao Đài đã tham gia tích cực vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. |
Trang 21
Duy trì các lễ hội được sáng tạo trên nền tảng văn hoá dân tộc, gồm: lễ vía Đức Chí Tôn (mồng 9 tháng Giêng) và lễ hội Yến Diêu Trì Cung (ngày 15 tháng Tám âm lịch).
Bảo tồn giá trị độc đáo trong các lĩnh vực như: báo chí, thơ văn, âm nhạc, kiến trúc,... Ví dụ, kiến trúc thờ tự của đạo Cao Đài vừa có nét của nhà thờ Công giáo, vừa có nét của chùa Phật giáo.
• Phật giáo Hoà Hảo
Phật giáo Hoà Hảo ra đời ở Nam Bộ từ năm 1939. Đây là một trong những tôn giáo ở Việt Nam có tổ chức hoạt động hợp pháp và có số lượng tín đồ tương đối lớn. Người sáng lập đạo là ông Huỳnh Phú Sổ, quê ở làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).
Phật giáo Hoà Hảo được khai sáng trên nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và lấy Tịnh độ tông làm căn bản tu hành. Phật giáo Hoà Hảo chủ trương học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ và thực hiện Tứ Ân: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo, Ân đồng bào nhân loại.
Về tổ chức, Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo chia làm hai cấp: cấp toàn đạo có tên gọi là Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hoà Hảo; cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là Ban Trị sự Phật giáo Hoà Hảo cơ sở. Tính đến năm 2022, Phật giáo Hoà Hảo có khoảng 1,3 triệu tín đồ.
• Hồi giáo
Đạo I-xlam ra đời ở bán đảo A-rập vào đầu thế kỉ VII, khi truyền bá vào Việt Nam được gọi là đạo Hồi (Hồi giáo).
Hình 24. Thánh đường Hồi giáo Mu-ba-rắc (An Giang)
EM CÓ BIẾT? Tên gọi Hồi giáo xuất phát từ cách gọi của người Trung Quốc. Đạo I-xlam được truyền bá vào Trung Quốc thông qua bộ lạc thuộc dân tộc Hồi Hột nên được gọi là Hồi giáo hoặc Hồi Hột giáo. |
Hồi giáo bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ X. Từ cuối thế kỉ XV, Hồi giáo đã có chỗ đứng đáng kể trong đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân Chăm-pa.
Cộng đồng cư dân Chăm theo Hồi giáo ở Việt Nam có dòng khác nhau: Chăm I-xlam và Chăm Bà-ni.
Trong đời sống văn hoá – xã hội của người Chăm, Hồi giáo có những biểu hiện như: Thực hành những điều mà A-la răn dạy các tín đồ Hồi giáo được làm và không được làm như: bố thí rộng rãi cho người nghèo, không giết người, không ngoại tình, không uống rượu, cờ bạc, bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi, cư xử công bằng với mọi người;...
Trang 22
Duy trì các nghi lễ vòng đời đậm màu sắc Hồi giáo của người Chăm, bao gồm nghi lễ trong các giai đoạn: sinh ra, trưởng thành và qua đời.
Tổ chức các nghi lễ tôn giáo gắn với các hình thức sinh hoạt cộng đồng như: lễ hội Ra-ma-đan, lễ hành hương đến Thánh địa Méc-ca (A-rập Xê-út),...
Câu hỏi: Trình bày nét chính về một số tôn giáo khác ở Việt Nam.
LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG
1. Lập sơ đồ tư duy về các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo tiêu biểu ở Việt Nam (nguồn gốc, biểu hiện trong đời sống văn hóa – xã hội hiện nay).
2. Thông qua hoạt động trải nghiệm và tìm hiểu thực tế, hãy lập hồ sơ thư mục về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam (theo gợi ý dưới đây vào vở).
Tên loại hình | Đặc trưng cơ bản (về đối tượng thờ cúng, thực hành nghi lễ,...) | Cơ sở thờ tự, nhà thờ, di tích tiêu biểu có liên quan |
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên | ? | ? |
Tín ngưỡng thờ Mẫu | ? | ? |
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng | ? | ? |
Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc | ? | ? |
Phật giáo | ? | ? |
Nho giáo | ? | ? |
Đạo giáo | ? | ? |
Công giáo | ? | ? |
Tin Lành | ? | ? |
Trên cơ sở trải nghiệm của bản thân và sưu tầm thêm tư liệu trên sách, báo hoặc internet, chọn và thực hiện một trong hai nhiệm vụ sau đây:
1. Viết một bài giới thiệu về một trong những tín ngưỡng hoặc tôn giáo mà em có ấn tượng nhất với chủ đề “Đi tìm mạch nguồn văn hoá của dân tộc”.
2. Thiết kế một tấm pa-nô hoặc báo tường về chủ đề “Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc” hoặc “Công giáo Việt Nam – sống phúc âm giữa lòng dân tộc” theo cách tiếp cận riêng của em.